Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Vu Lan Bồn

26 Tháng Hai 201400:00(Xem: 15127)
Kinh Vu Lan Bồn


KINH VU LAN BỒN

 

Tam tạng pháp sư Trúc Pháp Hộ (người nước Nhục-chi) dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tây-Tấn (265-316).

Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn tại Gia-nã-đại, năm 2011.

(Dịch từ bản Hán văn “Phật Thuyết Vu Lan Bồn Kinh”, kinh số 685, tạng Đại Chánh, quyển 16, trang 779.) Nguyên tác: 1 quyển [1]

 

 

Chính tôi nghe như vầy:

Một thời đức Thế Tôn

Ngự tại khu vườn rừng

Kì-đà Cấp-cô-độc

(Tức tinh xá Kì-viên),

Ở kinh thành Xá-vệ.

 

 *

Tại tinh xá, bấy giờ,

Tôn giả Đại Mục Liên

Vừa chứng sáu thần thông,

Muốn cứu độ cha mẹ,

Đền đáp ơn sinh dưỡng;

Nên dùng sức thiên nhãn

Quan sát khắp thế gian,

Nhìn thấy thân mẫu mình

Sinh trong chốn ngạ quỉ,

Không có gì ăn uống,

Hình hài trông tiều tụy,

Gầy ốm da liền xương.

Tôn giả lòng đau xót,

Liền bưng bát cơm đầy,

Đem đến dâng lên mẹ.

Bà chụp ngay bát cơm,

Tay trái thì che đậy,

Tay phải vốc cơm ăn;

Nhưng cơm chưa vào miệng

Đã hóa thành than lửa!

Bà không thể ăn được.

Tôn giả quá thương tâm,

Kêu khóc thật bi thảm;

Liền mau về trước Phật,

Bạch rõ cảnh tượng này.

 

 *

Nghe xong, đức Phật dạy:

Này, thầy Mục Kiền Liên!

Tội chướng của mẹ thầy,

Gốc rễ kết đã sâu;

Năng lực một mình thầy

Không thể nào giải cứu!

Tâm hiếu thuận của thầy,

Dù rúng động trời đất,

Nhưng ở trong thế gian,

Những vị uy lực lớn

Như thiên thần, địa thần,

Chúng ma vương tà ngụy,

Các đạo sĩ ngoại đạo,

Cả bốn vị Thiên Vương,

Cũng không làm gì được!

Phải nhờ sức uy thần

Của Tăng Chúng mười phương,

Mẹ thầy mới siêu thoát.

Như Lai nhân dịp này,

Sẽ chỉ dạy cho thầy

Một phương pháp cứu tế,

Giúp những kẻ khổ nạn

Tiêu trừ mọi tội chướng,

Thoát khỏi cảnh khổ đau.

 

 *

Phật bảo Đại Mục Liên:

Trong ngày lễ Tự Tứ

Của Tăng Chúng mười phương

Vào ngày Rằm tháng Bảy,

Quí thầy hãy thành tâm

cha mẹ hiện tại

Đến bảy đời quá khứ,

bà con quyến thuộc

Đang trong vòng khổ nạn,

Mà sắm sửa trai phạn

Đủ mùi vị thơm ngon,

Đặt vào trong chiếc bồn;

Cùng các loại trái cây;

Và các vật cần dùng

Như thau bồn đựng nước,

Đồ dùng múc, rưới nước;

Thuốc men, hương, đèn, dầu;

Giường, chiếu, gối, chăn, màn ...

Đem tất cả dâng cúng

Đại Đức Tăng mười phương.

 

 *

Tất cả chư Thánh Chúng

Vào ngày Tự Tứ ấy,

Hoặc đang tu thiền định

Nơi núi non thanh vắng;

Hoặc thường đi kinh hành

Trong rừng cây thâm u;

Hoặc chứng bốn quả Thánh;

Hoặc Thanh-văn, Duyên-giác,

Đã chứng sáu thần thông,

Đang giáo hóa tự tại;

Hoặc chư Bồ-tát lớn

Đã lên hàng Thập-địa,

Nhưng phương tiện thị hiện

Làm thân tướng tì kheo ...

Tất cả những vị ấy

Tụ hội trong Tăng Chúng,

Đều đồng đẳng nhất tâm

Thọ dụng bữa trai tăng

Cúng dường Tăng Tự Tứ.(*)

Chúng Tăng Tự Tứ này,

Đủ giới pháp thanh tịnh,

Nên phước đức mênh mông.

Người nào được cúng dường

Tăng Chúng Tự Tứ trên,

Thì cha mẹ bà con

Đời này của người ấy:

Nếu đã quá vãng rồi,

Tức thì được thoát khỏi

Cảnh khổ ba đường dữ,

Sinh về cảnh giới lành,

Cơm áo có tự nhiên;

Nếu còn đang tại thế

Được hưởng nhiều phước lạc,

Sống lâu đến trăm tuổi.

Còn các bậc cha mẹ

Trong bảy đời quá khứ,

Thì tự tại hóa sinh

Lên ở các cõi trời,

Đầy ánh sáng hoa lệ,

Hưởng phước lạc vô biên.

 

 *

Bấy giờ Phật qui định:

Tăng Chúng trong mười phương

Trước hết, vì trai chủ,

Định tâm ý chú nguyện

Cho cha mẹ hiện tại

Đến bảy đời quá khứ,

Rồi sau mới thọ thực.

Và trước khi thọ thực,

Hãy đặt các thức ăn

Trước bàn Phật trai đường,

Hoặc ở nơi chùa tháp,

Sau khi chú nguyện xong,

Tăng Chúng mới thọ thực.

 

 *

Phật dạy điều ấy xong,

Tôn giả Mục Kiền Liên

Cùng chư vị Bồ-tát,

Tất cả đều hoan hỉ.

Tiếng khóc than bi thảm

Của tôn giả Mục Liên

Tức thì không còn nữa.

Thân mẫu ngài Mục Liên,

Cũng ngay trong ngày ấy,

Thoát cảnh khổ ngạ quỉ.

 

 *

Bấy giờ ngài Mục Liên

Lại bạch đức Thế Tôn:

Nay thân mẫu của con,

Nhờ công đức Tam Bảo,

Nhờ uy lực Tăng Chúng,

Nên đã được siêu thoát.

Nếu trong đời vị lai,

Tất cả hàng Phật tử,

Muốn hành hạnh hiếu thuận,

Cũng vâng theo cách thức

Đức Thế Tôn đã dạy

Về pháp Vu-lan-bồn,

Độ cha mẹ hiện tại

Đến cha mẹ bảy đời;

Như thế có được không?

 

 *

Đức Thế Tôn dạy rằng:

Thầy hỏi thật đúng lúc,

Chính Như Lai muốn nói,

Mà thầy lại hỏi rồi.

Này Đại Mục Kiền Liên!

Bất luận Phật tử nào:

Dù là các tì kheo,

Hoặc giả tì kheo ni,

Hay quốc vương, vương tử,

Tể tướng và đại thần,

Các quan viên lớn nhỏ,

Cho đến cả muôn dân,

Phải có lòng từ hiếu,

Phải thực hành hiếu hạnh.

Họ phải vì cha mẹ

Hiện tại đến bảy đời,

Vào ngày Rằm tháng Bảy

(Là ngày “Phật hoan hỉ”,

Ngày “Chúng Tăng tự tứ”),

Hãy sắm sửa trai phạn,

Đầy đủ các hương vị,

Đựng trong bồn vu-lan,

Cúng dường mười phương Tăng

Vừa thọ pháp Tự Tứ.

Xin các ngài chú nguyện

Cho cha mẹ hiện tại

Được sống lâu trăm tuổi,

Không các thứ tật bệnh,

Không phiền muộn, khổ đau;

cha mẹ bảy đời

Thoát cảnh khổ ngạ quỉ,

Được sinh trong loài người,

Hoặc lên các cõi trời,

Hưởng phước lạc vô cùng.

 

 *

Đức Thế Tôn dạy tiếp:

Đệ tử của Như Lai

Thực hành hạnh hiếu thuận,

Thì mỗi niệm mỗi niệm

Thường nghĩ nhớ cha mẹ

Hiện tại đến bảy đời.

Rằm tháng Bảy mỗi năm,

Đem tâm thành từ hiếu

Tưởng nhớ đến cha mẹ

Đang còn sống hiện tại

Và bảy đời quá khứ.

Hãy sắm sửa đầy đủ,

Vật thực cùng phẩm vật,

Cúng dường Phật và Tăng,

Báo đáp ơn sinh dưỡng,

Ơn yêu thương đùm bọc

Của hai đấng sinh thành.

Tất cả đệ tử Phật

Phải vâng giữ hành trì

Thắng pháp Vu Lan Bồn

Như Lai dạy trên đây.

 

 *

Bấy giờ ngài Mục Liên

Cùng bốn chúng đệ tử,

Nghe lời dạy của Phật,

Tất cả đều vui mừng,

Nguyện vâng giữ, hành trì.

(*) Hai câu này được dịch từ câu “Thọ bát-hòa-la phạn” trong kinh văn chữ Hán. Trong câu ấy, chữ “thọ” (nhận) và chữ “phạn” (cơm) là hai chữ Hán; còn ba chữ “bát-hòa-la” là dịch âm của chữ Phạn “pravàrana”, có nghĩa là “tự tứ”. Vậy, câu kinh văn chữ Hán “thọ bát-hòa-la phạn” ánHHcó nghĩa là: thọ dụng bữa cơm tự tứ, – ở đây có nghĩa là bữa cơm do đàn việt cúng dường PhậtChúng Tăng trong ngày Tự Tứ (tức bữa cơm trưa ngày Rằm tháng Bảy âm lịch). Trước đây có vị đã dịch cụm từ “bát-hòa-la phạn” là: “bát cơm lục hòa”, e không chính xác.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34624)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33443)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43915)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57054)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47559)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39416)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38471)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52931)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36594)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32236)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40464)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43476)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31446)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46705)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36203)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28692)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29228)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31883)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28817)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33359)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29126)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60976)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39760)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26670)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29661)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37366)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40083)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26832)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42649)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37275)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28283)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28893)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26391)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27166)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26182)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34627)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27799)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30472)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33280)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28562)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30062)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25486)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21842)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51286)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26719)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28618)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27701)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24346)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27454)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31924)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30182)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27697)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35438)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27437)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30004)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31767)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23013)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24178)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23013)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26648)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant