Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quyển Thứ Ba

25 Tháng Tư 201400:00(Xem: 8821)
Quyển Thứ Ba


LUẬN VỀ CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT


Tác giả: Ngài A La Hán Ưu Ba Đề Sa (Uptissa)

Ngài Tam Tạng Tăng Già Bà La (Samghaphala)

nước Phù Nam dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán. 

Sa Môn Thích Như Điển, dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt



Quyển Thứ Ba 

Phẩm Phân Biệt Hạnh (việc làm)
Thứ 6


Lúc bấy giờ y chỉ với vị A Xà Lê, lấy số ngày xem xét việc làm. Việc làm nầy tương ưng với hành xứ và từ đó có thể chỉ dạy thêm. Đối với việc làm nầy có tất cả là 14 loại. Đó là dục hành, sân nhuế hành, si hành, tín hành, ý hành, giác hành, dục sân nhuế hành, dục si hành, sân si hành, đẳng phần hành, tín ý hành, tín giác hành, đẳng phần hành, ý giác hành

Lại nữa ái, kiến, mạn v.v... các loại hành cũng nên biết. Đối với điều tham dục nầy, ý bảo làm, tánh vui đắm trước. Chẳng khác với nghĩa nầy. Do hành mà thành 14 loại người. Dục hành nhơn, sân hành nhơn, si hành nhơn, tín hành nhơn, ý hành nhơn, giác hành nhơn, dục sân hành nhơn, dục si hành nhơn, sân si hành nhơn, đẳng phần hành nhơn, tín ý hành nhơn, tín giác hành nhơn, ý giác hành nhơn, đẳng phần hành nhơn. Đối với dục nầy, dục dục sai sử dục tánh, dục lạc. Đây có nghĩa là dục hành nhơn. Dục nầy thường làm tăng thượng dục. Đây gọi là dục hành. Như thế tất cả sẽ phân biệt.

Lúc ấy 14 loại người nầy lược lại thành 7 loại người. Như thế dục hành nhơn - tín hành nhơn thành một. Sân hành nhơn - ý hành nhơn thành một. Si hành nhơn - giác hành nhơn thành một. Dục sân hành nhơn - tín ý hành nhơn thành một. Dục si hành nhơn - tín giác thành nhơn thành một. Sân si hành nhơn - ý giác thành nhơn thành một. Hai đẳng phần hành nhơn thành một.

Hỏi rằng: Vì sao dục hành nhơn, tín hành nhơn thành một?
Đáp rằng: Dục hành nhơn đối với bạn lành tăng trưởng tín hành dục, thân cận công đức vậy. Lại nữa lấy 3 hạnh, dục và tín. Câu nầy thành một tướng, có nghĩa là ái niệm nghĩa tìm về công đức. Nghĩa chẳng xả. Đối với dục nầy là niệm dục. Tín là niệm thiện; dục là tìm dục công đức. Tín là tìm công đức lành. Dục là chẳng xả, chẳng dễ thương làm tướng. Tín là chẳng xả lấy dễ thương làm tướng. Cho nên dục hành và tín hành thành một tướng.

Hỏi rằng: Vì sao mà sân nhuế hành và ý hành thành một?
Đáp rằng: Người làm chuyện sân đối với bạn lành tăng thêm trí làm việc sân, gần gũi công đức vậy. Lại nữa lấy 3 hành sân nhuếtrí thành một tướng. Chẳng phải ái niệm; nên tìm sân vậy, rồi xả. Đối với người sân nầy chẳng an vui ái niệm; kẻ trí chẳng an hành niệm. Người sân nhuế tìm đến sân. Kẻ trí biết việc làm sai trái. Người sân an xả, kẻ trí an xả hành cho nên người sân hành và ý hành thành một tướng.

Hỏi rằng: Vì sao si hành nhơn và giác hành nhơn thành một?
Đáp rằng: Si hành nhơn làm được việc lành, tăng trưởng giác hành si, gần gũi công đức vậy. Tín huệ động lìa được. Lại nữa lấy 2 hành si giác thành một tướng. Chẳng tự định; nên động vậy. Đối với đây si an; nên loạn vậy. Chẳng an. Biết nhiều và nhớ nhiều loại, nên thành ra chẳng an. Si chẳng chỗ khởi và hướng thành động. Biết nhẹ nhàng nên thành động. Cho nên si hành và giác hành thành một tướng vậy. Lấy đây làm phương tiện, ngoài hành nên phân biệt. Như thế đây thành bảy người.

Đối với 7 người nầy vì sao xa sự tu hành? Vì sao tu hành trì trệ?
Dục hành nhơn xa rời sự tu hành, lấy an có thể giáo hóa, tín lực vậy. Si giác mỏng vậy. Sân hành nhơn xa rời sự tu hành, sự an có thể giáo hóa, có ý lực vậy. Si giác mỏng. Si hành nhơn làm trễ nải việc tu hành, khó thể giáo hóa, có si giác lực vậy. Tín ý mỏng. Dục sân hành nhơn xa rời sự tu hành, sự an có thể giáo hóa, có tín ý lực vậy. Si giác mỏng. Dục si hành nhơn làm trì trệ việc tu hành, khó có thể giáo hóa được, khó yên để tin, si giác lực vậy. Sân si hành nhơn làm trì trệ việc tu hành, khó có thể giáo hóa, chẳng an ý vậy, si giác lực. Đẳng phần hành nhơn làm trì trệ việc tu hành, khó thể giáo hóa, chẳng yên trụ ý vậy. Có si giác lực.

Lúc bấy giờ 7 loại người nầy do căn bổn phiền não nên chia làm ba. Đó là dục hành nhơn, sân nhuế hành nhơn và si hành nhơn.

Hỏi rằng: Đây là 3 loại hành do nguyên nhơn gì vậy? Vì sao có thể biết đây là dục hành nhơn; đây là sân hành nhơn và đây là si hành nhơn? Vì sao hành việc thọ y, khất thực, tọa cụ hành xứ uy nghi?
Đáp rằng: Đó là chỗ tạo nhơn duyên lúc đầu. Các hành giới lấy làm nhơn duyên, sai trái lấy làm nhơn duyên.

Vì sao các hành đầu tiên tạo ra nhơn duyên?
Đối với điều đầu tiên có phương tiện dễ thương vậy. Có nhiều nghiệp lành, thành dục hành nhơn. Lại từ cõi chư thiên, bị sanh lạc vào nơi nầy, thường hay khởi tâm sát hại tạo nên nghiệp oan trái, thành sân hành nhơn. Chẳng thích nghiệp nơi che khuất. Từ địa ngục, từ rồng đọa lạc sanh vào đây. Đầu tiên là do uống rượu nhiều và làm chuyện ly gián, thành si hành nhơn. Từ súc sanh đọa lạc sanh vào đây; như thế các việc làm đầu tiên tạo nên các nhơn duyên.
Thế nào là giới làm nhơn duyên?
Hai giới gần gũi vậy, thành si hành nhơn. Đó là địa giớithủy giới; hai giới gần gũi, thành sân hành nhơn. Đó là hỏa giới, phong giới. Tất cả là 4 giới vậy, thành dục hành nhơn. Như thế tất cả các hành giới là nguyên nhơn.

Vì sao lấy sự sai trái làm nguyên nhơn?
Lấy nhiều đờm dãi thành dục hành nhơn. Lấy nhiều sự ưa nói thành sân hành nhơn. Lấy nhiều gió làm thành si hành nhơn. Lại cũng có nói nhiều đờm dãi thành si hành nhơn. Tối đa gió thành dục hành nhơn. Như thế đó là làm nhơn duyên cho việc sai trái.

Vì sao có thể biết người nầy là dục hành, người nầy là sân hành và người nầy là si hành?
Đáp rằng qua bảy hành có thể biết được. Như thế do công việc, do phiền não, do hành, do thọ giữ, do ăn, do nghiệp, do nằm mà ra.

Vì sao do công việc mà biết?
Dục hành nhơn thấy chỗ có công việc. Việc chưa thấy sẽ thấy, liền thấy. Hằng quán nơi chơn thật sai trái chẳng tác ý. Đối với công đức nhỏ,thành chẳng khó. Chẳng từ dục nầy giải thoát, liền quán chẳng thể xả hành. Biết nơi việc khác. Các hành như thế, dục hành có thể biết sân hành nhơn. Thấy sở hữu việc như thế. Như mỏi mệt chẳng thể nhìn lâu. Tùy chỗ chấp sai để hủy hoại nhiều người. Đối với công đức nhiều, chẳng thể không khó. Từ đây chẳng xả. Tuy lấy sự sai trái được rồi liền biết hành những việc khác cũng như thế. Hành sân, hành có thể biết. Si hành nhơn thấy chỗ có những việc như thế. Đối với công đức quá hoạn thành việc tin nơi kia. Nghe người kia chỗ yếu lại yếu. Nghe nơi kia chỗ tán thán lại tán thán. Tự chẳng biết vậy. Lấy những hành như thế đối với việc ngoài, si hành có thể biết, như thế các việc.
Hỏi rằng: Vì sao lấy phiền não để biết?
Đáp rằng: Dục hành nhơn có 5 phiền não. Đó là đa hành, keo kiệt, huyễn, siểm, dục. Đây nghĩa là 5 sân nhuế hành nhơn có 5 phiền não, đa hành phẫn, hận, phú, khan, sân. Đây là 5. Si hành nhơn có 5 phiền não, đa hành, lười, giải đãi, nghi, hối, vô minh là 5. Như thế phiền não có thể biết.

Hỏi rằng: Cái gì là hành?
Đáp rằng: Dục hành nhơn lấy hành làm tánh. Cất bước chân có tật đi ngang. Cất bước ngang thì bước chẳng rộng. Cất bước đi dễ thương. Như thế lấy hành dục, hành có thể biết. Sân nhuế hành nhơn thấy hành làm tánh, mau khởi bước, mau hạ chân. Tiếp theo là nửa bước giáp đất. Như thế mà đi, người sân nhuế có thể biết. Si hành nhơn thấy hành làm tánh. Dở chân, đạp đất rồi lại sát xuống, lấy chân chạm chân rồi đi, mà đi như thế, si hành nhơn có thể biết, như thế để đi.

Sao gọi là lấy việc mặc áo làm dục hành nhơn?
Đáp rằng: Dục hành nhơn lấy việc đắp y làm tánh. Chẳng thấy nhiều, chẳng khoan thai mặc y quá rộng. Ngay ngắn vừa vặn nhiều loại ngắm nhìn dễ mến. Sân hành nhơn lấy mặc y làm tánh. Quá gấp, quá thừa, chẳng ngay, chẳng gọn, chẳng thấy được chỗ dễ mến, chẳng thể thấy. Si hành nhơn lấy việc đắp y mặc áo làm tánh. Nhiều chậm rãi, chẳng gọn, chẳng cân; chẳng có loại nào dễ mến, dễ xem. Như thế lấy việc đắp y mặc áo có thể biết được.

Hỏi rằng: Vì sao lấy chỗ ăn mà có thể biết?
Đáp rằng: Dục hành nhơn vui với béo, ngọt. Sân nhuế hành nhơn vui với thù tạc. Si hành nhơn chẳng tập trung vui. Lại nữa dục hành nhơn lúc ăn tự lượng đồ ăn tương ưng với điều mình muốn. Lại biết khí vị chẳng xa ăn. Nếu được ít mùi vị, thành niềm vui lớn. Sân hành nhơn thấy việc ăn, muốn lấy nhiều, ăn bớt, ăn đầy miệng. Nếu được ít đồ ăn thì lại phiền não. Si hành nhơn thấy việc ăn chẳng đầy đủ, chẳng đoạn thực, chẳng gặp lúc. Lấy ít mà ăn để dính nơi miệng; một nửa cho vào miệng; một nửa rơi rớt nơi bàn, loạn tâm; chẳng nghĩ đến lúc ăn, như thế lấy dục có thể biết.

Hỏi rằng: Vì sao lấy công việc để biết?
Đáp rằng: Dục hành nhơn quét dọn, đứng ngay quét tước chẳng sạch, chẳng biết đất cát, lấy làm sạch sẽ. Sân hành nhơn nếu quét tước, gấp rút quét dọn 2 bên, rồi quét đi đất cát. Vội nghe tuy sạch sẽ mà chẳng bình đẳng. Ngu si hành nhơn nếu quét rác, thì khoan thai quét dọn đó đây mà thấy nơi chẳng sạch, lại chẳng công bình. Như thế lổ chổ đây đó v.v... Tất cả công việc bình đẳng làm ấy chẳng cùng với tâm. Đây là dục nhơn sân hành ở nơi tất cả việc chẳng bình đẳng làm, chẳng dụng tâm. Si hành nhơn loạn tâm làm nhiều chẳng thành. Như thế các việc có thể biết.

Hỏi: Vì sao lấy sự nằm ngồi?
Đáp rằng: Dục hành nhơn ngủ chẳng tiết chế. Ngủ trước, chiếm chỗ ngủ làm cho trước sau giống nhau. An ổn đặt thân chỗ khuất lên tay rồi ngủ. Nửa đêm có thay đổi liền dậy. Như có chỗ nghi liền đáp. Sân hành nhơn lại nằm ngủ. Tùy theo đó mà nằm yên. Thân, mặt, mắt tần ngần. Ban đêm nếu có người hoán đổi liền khởi sân mà đáp lại. Người si nếu nằm ngủ nghỉ, nơi ấy chẳng trọn đủ. Nên tay chân che thân mà nằm. Trong đêm nếu có người thay chỗ liền nghe tiếng ừ ừ thật lâu đáp lại. Như thế lấy việc nằm ấy mà có thể biết.

Hỏi rằng: Làm gì và pháp gì? Dùng việc thọ y áo, ăn uống, ngồi nằm, hành xứ?
Đáp rằng: Dục hành nhơn áo quần thô kệt chẳng ra hồn và lấy đồ nầy mặc. Sân hành nhơn mặc đồ sạch sẽ, y áo thanh tịnh, màu còn tốt dễ xem. Đây nên mặc. Si hành nhơn mặc tùy theo chỗ được mặc. Dục hành nhơn khất thực thô, chẳng tinh khiết. Chẳng đẹp đẽ ý nghĩa về tiểu khất thực. Sân hành nhơn khất thực mặc đồ đẹp tinh khiết, mùi thơm như ý là chỗ được si. Hành nhơn khất thực tùy theo chỗ được có tiết chế.
Dục hành nhơn ngồi nằm ở dưới bóng gốc cây nơi có nước. Ở nơi ít xa làng xóm. Lại nơi chẳng có chùa. Đối với nơi không có đồ nằm thì ở đây nên ngồi ngủ. Sân hành nhơn ngồi nằm dước gốc cây gần nước, thành tựu ngay ngắn. Đối với chùa viện có chỗ ngủ nghỉ đầy đủ thành nơi ngủ nghỉ. Si hành nhơn nương vào đó. Gần gũi vị Thầy để ở. Dục hành nhơn hành xứ, nơi ăn uống thô sơ. Nếu vào làng xóm nên hướng theo mặt trời mà đi. Đối với nơi người ác, ở đây nên đi. Sân nhuế hành nhơn xứ, đối với việc cơm nước, ăn uống đầy đủ. Theo ngày dài ra, nhiều người tin hướng đến nơi. Chỗ nầy nên vào. Si hành nhơn tùy nơi được chỗ. Dục hành nhơn uy nghi, hay đi bộ nhiều. Sân hành nhơn nương vào chỗ nằm ngồi. Si hành nhơn nương vào nơi hành xứ. Đối với việc nầy tan ra. Kẻ muốn nương vào cảnh giới dễ mến để tin. Sân nhuế là chẳng sự dễ mến cảnh giới làm tin. Si là cơ thể thấy nguyên nhơn. Dục lại như nô bộc. Sân nhuế như là ông chủ. Si dụ như chất độc. Tham nghĩa là ít quá hoạn, đoạn vô nhiễm. Sân nhuế quá hoạn lớn, làm cho vô nhiễm. Si là đại quá hoạn, đoạn trừ vô nhiễm. Dục hành nhơn vui với sắc. Sân hành nhơn vui với việc an định. Si hành nhơn vui với sự giải đãi.-

Phẩm Phân Biệt Hành Xứ
Thứ 7

Lúc đó y chỉ sư quán sát điều nầy nơi chỗ làm. Dạy cho 38 việc làm và sẽ lại dạy cho 2 việc làm tương ưng

Hỏi rằng: Thế nào là 38 hành xứ?
Đáp rằng: Đó là 10 tất cả nhập địa, thủy, hỏa, phong, xanh, vàng, đỏ, trắng, không xứ, thức xứ tất cả nhập. Lại thêm 10 tưởng bất tịnh như tưởng sình trướng, tưởng xanh phồng lên, tưởng đến sự thối nát, tưởng về đồ liệng bỏ, tưởng đến đồ ăn của chim thú, tưởng đến thịt từng phần của thân trướng lên, tưởng đến việc cưa chặt ra từng khúc, lại tưởng vể máu huyết chảy đỏ, tưởng đến trùng hôi, tưởng đến xương cốt. Lại có 10 niệm. Đó là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm tử, niệm thân, niệm số tức, niệm tịch tĩnh.Lại có 4 vô lượng tâm. Đó là từ, bi, hỷ, xả và quán tưởng về 4 đại, ăn bất tịnh, vô sở hữu xứ, phi phi tưởng xứ. Đây là tất cả 38 hành xứ. 38 hành xứ nầy lấy 9 hành làm chỗ biết cao cả. Một là lấy thiền, hai là lấy chánh việt, ba là lấy tăng trưởng, bốn là lấy duyên, năm là lấy công việc, sáu là lấy thắng, bảy là lấy địa, tám là lấy thủ, chín là lấy người.

Hỏi rằng: Thế nào là lấy thiền?
Đáp rằng: Đó là 10 hành xứ, thành thiền ngoại hành. Lại 11 hành xứ thành tựu sơ thiền. Lại 3 hành xứ thành tựu tam thiền. Lại một hành xứ thành tựu tứ thiền. Lại 9 hành xứ thành tựu tứ thiền ngũ thiền. Lại 4 hành xứ thành tựu vô sắc tứ thiền.

Hỏi rằng: Vì sao mà 10 hành xứ thành thiền ngoại hành?
Đáp rằng: Từ sổ tứcquán thân, ngoài 8 niệm và quán 4 đại thực bất tịnh tưởng. Đây gọi là 10 ngoại hành.

Hỏi rằng: Vì sao 11 hành xứ sơ thiền sở nhiếp?
Đáp rằng: 10 bất tịnh tưởng và quán thân. Đây gọi là sơ thiền sở nhiếp.

Hỏi rằng: Thế nào là 3 hành xứ? 3 sở nhiếp?
Đáp rằng: Đó là từ, bi, xả.

Hỏi rằng: Thế nào là một hành xứ, tứ thiền sở nhiếp?
Đáp rằng: Đó là xả.

Hỏi rằng: Sao gọi là 9 hành xứ, tứ thiền ngũ thiền sở nhiếp?
Đáp rằng: Trừ không nhứt thiết, nhập thức nhứt thiết nhập. Ngoài ra còn 8 nhứt thiết nhập và sổ tức niệm.

Hỏi rằng: Sao là 4 hành xứ, 4 vô sắc sở nhiếp?
Đáp rằng: Hư không nhứt thiết nhập, thức nhứt thiết nhập, vô sở hữu xứ, phi phi tưởng xứ. Đây gọi là 4 hành. Như thế lấy thiền có thể biết.

Hỏi rằng: Vì sao lấy chánh việt?
Đáp rằng: Nhập hành xứ thành ra vượt quá sắc, trừ vô sắc nhứt thiết nhập. Ngoài ra còn 8 nhứt thiết nhập. Ngoài ra có 30 hành xứ chẳng thành việc vượt khỏi sắc. Lại có 3 hành xứ thành việc vượt khỏi. Ba vô sắc nhứt thiết nhập và vô sở hữu nhập. Ngoài ra 35 hành xứ, chẳng thành việc vượt qua. Lại có một hành xứ thành ra việt tưởng thọ. Đó là phi phi tưởng xứ. Ngoài ra 37 hành chẳng thành việt tưởng thọ. Như thế lấy vượt qua có thể biết.
Hỏi rằng: Vì sao gọi là tăng trưởng?
Đáp rằng: Đó là 14 hành xứ có thể làm cho tăng trưởng. Đó là 10 nhứt thiết nhập và tứ vô lượng tâm. Ngoài ra 24 hành xứ, chẳng nên làm cho tăng trưởng. Như thế lấy tăng trưởng có thể biết.

Hỏi rằng: Vì sao làm duyên?
Đáp rằng: 9 hành xứ làm thần thông duyên. Trừ vô sắc nhứt thiết nhập, bát nhứt thiết nhập và phân biệt hư không nhứt thiết nhập. Ngoài ra 30 hành chẳng thành thần thông duyên. 37 hành xứ thành Tỳ Bà Xá Na duyên (quán, kiến, chủng chủng quan sát). Trừ phi phi tưởng xứ. Lại có một hành xứ chẳng thành Tỳ Bà Xá Na duyên. Cho nên phi phi tưởng xứ như thế lấy duyên có thể biết.

Hỏi rằng: Vì sao lấy công việc?
Đáp rằng: Đó là 21 hành xứ để phân biệt công việc. 12 hành xứ là thật sự; 5 hành xứ chẳng nên nói phân biệt sự thật sự.

Hỏi rằng: Thế nào là 21 hành xứphân biệt sự?
Đáp rằng: Trừ thức nhứt thiết nhập. Ngoài ra 9 nhứt thiết nhập; 10 bất tịnh tưởng và niệm sổ tức niệm thân.

Hỏi rằng: Vì sao 12 thật sự?
Đáp rằng: Thức nhứt thiết nhập, phi phi tưởng xứ và 10 thiền ngoại hành.

Hỏi rằng: Vì sao 5 việc chẳng nên nói phân biệt sự và thật sự?
Đáp rằng: Đó là tứ vô lượng tâmvô sở hữu xứ. Lại nữa nhị hành xứ; nội doanh sự,nội sự. Lại 2 hành xứ; nội doanh sự, ngoại sự. Lại một hành xứ, ngoại doanh sự nội sự. Lại 21 hành xứ; ngoại doanh sự ngoại sự. Lại có 4 hành xứ, nội doanh sự, nội sự thiết ngoại sự. Lại có 4 hành xứ, thiết nội doanh sự thiết ngoại doanh sự ngoại sự. Lại hai hành xứ, thiết nội doanh sự, thiết ngoại doanh sự, thiết nội sự, thiết ngoại sự. Lại có một hành xứ nội doanh sự chẳng nên nói và nội sự ngoại sự. Đối với đây 2 hành xứ nội doanh sự, nội sự; nghĩa là thức nhứt thiết nhập và phi phi tưởng xứ. Lại có 2 hành xứ là nội doanh sự ngoại doanh sự. Cho nên niệm sổ tức, niệm thân. Lại một hành xứ ngoại doanh sự, nội doanh sự. Cho nên niệm tử. Lại 21 hành xứ ngoại doanh sự, ngoại sự. Nghĩa là 10 bất tịnh tưởng. Tứ vô lượng tâm, tứ sắc nhứt thiết nhập, hư không nhứt thiết nhập và niệm Phật, niệm Tăng. Lại 4 hành xứ nội doanh sự, nội sự thiết ngoại sự. Nghĩa là niệm giới, niệm thí và quán nơi tứ đại. Và tưởng bất tịnh thực. Lại 4 hành xứ thiết nội doanh sự, thiết ngoại doanh sự. Nghĩa là tứ sắc nhứt thiết nhập. Lại 2 hành xứ thiết nội doanh sự, thiết ngoại doanh sự, thiết nội sự, thiết ngoại sự. Nghĩa là niệm Pháp, niệm tịch tĩnh. Lại một hành xứ nội ngoại doanh sự, nội sự. Nghĩa là niệm thiên. Lại một hành xứ nội doanh sự, nội sự, ngoại sự chẳng nên nói. Nghĩa là vô sở hữu xứ. Lại có hành xứ thuộc về việc quá khứ. Nghĩa là thức nhứt thiết nhập và phi phi tưởng xứ. Lại một hành xứ, đối với việc vị lai. Cho nên gọi là niệm tử. Lại một hành xứ đối với việc hiện tại. Đó là niệm thiên. Lại 6 hành xứ thiết (xây dựng) việc trong quá khứ, xây dựng việc vị lai, xây dựng việc hiện tại. Nghĩa là niệm Phật, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí. Và quán tứ đại bất tịnh thực tưởng. Lại hai hành xứ, thiết lập việc quá khứ, thiết lập việc hiện tại, thiết lập việc chẳng nên nói về quá khứ vị lai. Cho nên niệm Pháp, niệm tịch tĩnh. Lại 26 hành xứ, chẳng nên nói việc 3 đời. Nghĩa là 9 nhứt thiết nhập. 10 bất tịnh tưởng, tứ vô lượng tâm. Và niệm sổ tức, niệm thân. Vô sở hữu xứ lại có 4 hành xứ là việc động. Nghĩa là lửa nhứt thiết nhập, gió nhứt thiết nhập, trùng thối tưởng, niệm sổ tức. Nơi nầy tức động. Tướng nầy chẳng động. Ngoài ra 34 việc bất động, như thế lấy công việc mà biết.

Hỏi rằng: Vì sao lấy thắng?
Đáp rằng: 8 nhứt thiết nhập, tứ vô sắc định. Đây gọi là thắng chơn thật sự vậy. Lấy 8 nhứt thiết nhập gọi là định thắng vậy. Đệ tứ thiền kia được thắng địa vậy. Tứ vô sắc định thành thắng. 10 bất tịnh tưởng và ăn bất tịnh tưởng. Đây gọi là tướng thắng. Lấy sắc, lấy hình, lấy không, lấy phương, lấy phân biệt, lấy hòa hợp, lấy chấp trước, lấy bất tịnh tưởng sự, lấy thập niệm xứ. Đây gọi là thắng niệm vi tế vậy. Tùy niệm vậy. Tứ vô lượng tâm lấy vô quá làm thắng. Thọ nhiêu ích mà quán về tứ đại. Gọi là huệ thắng. Lấy chấp trước không; nên như thế lấy thắng có thể biết.

Hỏi rằng: Thế nào là lấy địa?
Đáp rằng: 12 hành xứ, chẳng sanh nơi cõi trời. Nghĩa là 10 bất tịnhniệm thân, thực bất tịnh tưởng. Lại có 13 hành xứ, chẳng sanh nơi sắc hữu. Đầu tiên là 12 và sổ tức, niệm bất sanh hữu sắc. Trừ tứ vô sắc xứ. Ngoài ra hành xứ chẳng sanh nơi vô sắc hữu. Như thế lấy địa có thể biết.

Hỏi rằng: Vì sao lấy thủ?
Đáp rằng: Đó là 17 hành xứ. Lấy kiến nên thủ tướng. Trừ gió, nhứt thiết nhập và vô sắc nhứt thiết nhập. Ngoài ra 7 nhứt thiết nhập, 10 bất tịnh tưởng. Lại một hành xứ, lấy xúc nên thủ tướng. Nghĩa là niệm sổ tức, lại một hành xứ. Hoặc lấy kiến, hoặc lấy xúc nên thủ. Nghĩa là gió, nhứt thiết nhập. Ngoài ra 19 hành xứ, lấy nghe phân biệt nên thủ. Lại 5 hành xứ; người mới tọa thiền chẳng nên tu hành tứ vô sắc và xả, dư 32. Người mới học thiền nên thủ. Như thế lấy thủ mà biết.

Hỏi rằng: Vì sao lấy người?
Đáp rằng: Dục hành nhơn, tứ vô lượng, chẳng nên tu hành, lấy tịnh tướng vậy. Vì sao thế? - Dục hành nhơn tác ý, tịnh tưởng chẳng phải chỗ làm. Như người bịnh đờm, ăn nhiều mập phì, chẳng phải nghi chỗ nầy. Sân hành nhơn 10 bất tịnh tưởng, chẳng nên tu hành. Sân si tưởng vậy. Sân nhuế tác ý, chẳng phải chỗ làm. Như người bịnh đờm uống ăn hao nhiệt, chẳng phải chỗ nghi. Si hành nhơn chưa tăng trưởng trí, chẳng nên làm cho khởi lên nơi sự tu hành, lìa phương tiện vậy. Nếu lìa phương tiện thì tinh tấn không có kết quả. Như người cỡi voi chẳng có dây cương. Dục hành nhơn nên tu bất tịnh tưởng và quán thân. Đây là dục đối trị vậy. Sân hành nhơn nên tu tứ vô lượng tâm. Đây là sân đối trị vậy. Hoặc sẽ tu sắc nhứt thiết nhập, tâm tùy theo đó vậy. Tín hành nhơn nên tu lục niệm xứ. Niệm Phật lấy làm đầu, rồi tín định vậy. Ý hành nhơn nên tu quán tứ đại. Đối với thực bất tịnh tưởng. Niệm tử, niệm tịch tĩnh nhiễm xứ vậy.

Lại nữa ý hành nhơn đối với nhứt thiết hành xứ chẳng thể phương hại. Giác hành nhơn nên tu niệm sổ tức lấy đoạn giác vậy. Si hành nhơn lấy lời hỏi pháp. Lấy thì gian nghe pháp, lấy pháp cung kính. Cùng với Thầy ở chung, làm cho trí tuệ tăng trưởng. Đối với 38 hành, tùy theo đó mà vui; nên sẽ tu niệm tử. Và quán tứ đại tối thắng. Lại nói đối với phân biệt hành xứ, ta thấy kia hơn. 6 người đối với chỗ phân biệt lược bớt mà chia thành 3.

Hỏi rằng: Nếu tự nhiên đối với việc ban đầu có hại?
Đáp rằng: Hai dục hành nhơn. Nghĩa là thuần căn lợi căn. Vì thuần căn dục nhơn, tu bất tịnh quán. Vì dục nầy đối trị. Đây là chỗ nên dạy làm, tu được trừ dục. Lợi căn dục nhơn, lòng tin đầu tăng trưởng, sẽ tu niệm xứ. Đây là chỗ nên dạy làm, tu được trừ dục.

Nhị sân hành nhơn. Nghĩa là thuần căn lợi căn. Vì thuần căn sân nhuế hành nhơn,tu tứ vô lượng. Đây lấy sân nhuế đối trị. Đây là chỗ nên dạy làm, tu được trừ sân. Lợi căn sân nhuế hành nhơn lấy trí tăng trưởng tu hành thắng xứ. Đây là chỗ dạy tu được trừ sân.

Nhị si hành nhơn; nghĩa là vô căn thuần căn si hành nhơn; chẳng nên dạy tu hành xứ. Vì thuần căn si hành nhơn. Vì trừ giác, nên dạy tu niệm sổ tức. Như thế đây được bớt, chỉ thành 3 người. Đây lại chẳng hại. Đối với pháp nầy tất cả nhập và sổ tức, lấy sự không tăng trưởng, vô hại thành tất cả việc làm. Nếu được thắng công đức nầy rồi, hơn tất cả việc làm, chỗ làm và nơi ấy thành chẳng hại.

Luận Về Con Đường Giải Thoát 
Hết Quyển 3 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29866)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27125)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21747)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22217)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20392)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20036)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21924)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24719)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18955)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24696)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23955)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27747)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26492)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23197)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38086)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18418)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19922)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19012)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23125)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23861)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22772)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22888)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29553)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20617)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18683)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15825)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20134)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19926)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18100)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22897)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16404)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39181)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26022)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18809)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29085)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30916)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26831)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20651)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26228)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19809)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24633)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29977)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20197)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20390)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15130)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15816)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23845)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant