Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Vô Thường

28 Tháng Hai 201507:49(Xem: 16390)
Kinh Vô Thường
PHẬT THUYẾT KINH VÔ THƯỜNG

Hán dịch, Pháp sư Nghĩa Tịnh, Bộ kinh Tập-4, q-17, tr.745, # 801
Việt dịch, Thích Hằng Đạt


Kinh Vô ThườngTôi nghe như vầy, một thời đức Phật ở tại thành Thất La Phiệt, trong rừng Thệ Đa, vườn của ông Cấp Cô Độc. Khi ấy, Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì? Đó là già, bịnh, chết. Này các tỳ kheo! Già bịnh chết này ở thế gian thật không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Nếu trên thế gian không có già, bịnh, chết thì Như Lai Chánh Đẳng Giác không thị hiện ở cõi đời này, vì các chúng sanhthuyết pháp đã chứng đắc và những cách điều phục tâm. Do đó nên biết, già bịnh chết này ở thế gian thật không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Vì ba việc này mà đức Như Lai Chánh Đẳng Giác xuất hiện trên thế gian để thuyết pháp đã chứng đắc và những cách điều phục tâm cho chúng sanh.


Lúc ấy, đức Thế Tôn dùng kệ nói lại những nghĩa trên:

“Các cảnh bên ngoài sẽ tan hoại
Trong thân biến hoại cũng như thế
Chỉ có thắng pháp chẳng diệt mất
Ai có trí huệ khéo quán chiếu
Già bịnh chết này cùng hiềm nhau
Hình dung xấu xa thật đáng chán
Dung mạo thiếu niên tạm thời trụ
Chẳng lâu sẽ trở thành khô kiệt
Giả sử thọ mạng suốt trăm năm
Cũng chẳng tránh họa quỷ vô thường
Già bịnh chết thường chạy đuổi theo
Thường tạo bất lợi cho chúng sanh.”

Đức Thế Tôn thuyết kệ xong, các vị tỳ kheo, trời rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, v.v… đều vui mừng hớn hở, tin sâu phụng hành.


Phật Thuyết Kinh Vô Thường,
Những Việc Quan Trọng Cần Làm Lúc Sắp Mất

Nếu tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ biết có người sắp mất, thân tâm thống khổ, thì phải khởi tâm từ, cứu độ ban lợi lạc cho họ; dạy họ tắm rửa sạch sẽ bằng nước hoa, mặc quần áo mới; ngồi ngay thẳng đàng hoàng, chánh niệm suy tư rằng người bịnh thì không có sức lực. Người khác thì có thể ngồi xếp bằng. Hãy dạy người bịnh nằm xuống, nghiêm về bên phải, chấp tay chí tâm hướng về phía tây. Trước mặt người bịnh dọn dẹp sạch sẽ; chỉ dùng phân trâu hương bột tùy tâm nhiều ít mà bôi lên đất; lập đàn tràng bốn góc xung quanh; lấy hoa rãi đất, đốt các thứ hương tốt bốn góc nhà. Ngay bên trong đàn tràng, treo một tượng Phật bằng tơ để người bịnh tâm tâm tương tục, quán thấy tướng hảo của Phật chi tiết rõ ràng, giúp họ phát tâm Bồ Đề, rồi lại dạy chi tiết về việc ba cõi bất an, đầy sự khổ nạn, chẳng phải nơi sinh sống. Chỉ có quả vị Phật Bồ Đề mới thật là nơi quy y kính ngưỡng. Nhờ quy y Tam Bảo quyết sẽ sanh vào các cõi Phật cùng cư trú với chư vị Bồ Tát, thọ những sự an lạc vi diệu. Hãy hỏi người bịnh rằng nay ông muốn sanh về cõi Phật nào? Người bịnh đáp rằng con muốn sanh về cõi Phật kia. Khi ấy, người thuyết pháp phải tùy theo ý thích của người bịnh mà dạy về mười sáu cách quán cõi Phật, v.v…, như quán cõi Tây Phương tịnh độ của Phật Vô Lượng Thọ chẳng hạn. Dạy xong hết tất cả, nên khiến người bịnh phát tâm muốn sanh về cõi Phật. Thuyết pháp xong, lại dạy họ phải quán chiếu kỹ càng các tướng hảo của Phật, tùy theo cõi Phật ở phương nào. Dạy quán tướng hảo Phật xong, lại dạy cách cung thỉnh Phật và chư Bồ Tát như sau: “Con cúi đầu đảnh lễ đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác cùng chư đại Bồ Tát, xin thương xót cho con, cứu độ ban lợi lạc. Con nay kính thỉnh các ngài giúp con diệt các nghiệp tội, và con lại muốn làm đệ tử, theo Phật cùng chư Bồ Tát sanh qua cõi Phật”.

Thỉnh bạch như thế lần thứ hai, lần thứ ba. Dạy người bịnh thỉnh bạch xong, lại dạy họ niệm danh hiệu của đức Phật đó, để thành tựu đầy đủ mười niệm, rồi khuyên họ thọ pháp Tam Quy Y, thành tâm sám hối nghiệp chướng. Dạy họ sám hối xong, lại dạy họ thọ giới Bồ Tát. Nếu người bịnh đau đớn không nói được, phải dạy người khác đại diệnthọ giớisám hối, v.v… Tất nhiên các tội chướng sẽ hết và đắc giới Bồ Tát, chỉ trừ là không chí tâm. Thọ giới xong, người bịnh kia nằm xoay đầu về hướng bắc, mặt hướng về phía tây, mở mắt nhắm mắt, quán tưởng kỹ càng ba mươi hai tướng hảo và tám mươi vẻ đẹp của Phật. Quán chiếu chư Phật trong mười phương cũng như thế. Lại cũng vì người bịnh mà thuyết pháp Bốn Thánh Đế, Nhân Quả Mười Hai Nhân Duyên, vô minh, già chết, khổ không, v.v… Nếu người bịnh sắp mất, những người lo cho người bịnh đó, phải niệm danh hiệu Phật, âm thanh liên tục không dứt đoạn. Tùy thep ý thích của người bịnh mà chỉ niệm một danh hiệu Phật, chứ không niệm nhiều danh hiệu của các đức Phật khác, vì sợ rằng tâm người bịnh sanh nghi ngờ. Nếu được như thế, lúc mạng sống của người bịnh sắp hết, thì sẽ thấy hóa Phật và chư Bồ Tát mang hoa báu vi diệu đến tiếp dẫn hành giả. Khi vừa thấy như thế, hành giả khởi tâm vui mừng, thân chẳng cảm thấy đau nhức, tâm chẳng tán loạn mà sanh chánh kiến, như nhập vào thiền định, rồi liền qua đời, tất chẳng đọa vào những cõi khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nương theo lời dạy bên trên, lập tức sanh trước mặt Phật, như lực sĩ vừa duỗi cánh tay.

Các cư sĩ nam, cư sĩ nữ tại gia! Sau khi người bịnh qua đời, nên nhặt lấy quần áo mới và những vật tùy thân của họ, phân làm ba phần, rồi vì họ mà cúng dường Phật, Pháp, Tăng. Nhờ đó mà nghiệp chướng của hương linh được dứt hết, và họ được công đức thù thắng lợi lạc. Chớ nên chôn quần áo mới và những vật dụng đó với tử thi. Vì sao? Vì không có lợi ích gì hết!

Tất cả y áo vật dụng hay không phải y áo vật dụng của các tỳ kheo, tỳ kheo ni, cùng những người cầu pháp tịch tĩnh, đều phải hợp với luật giáo. Còn những người khác thì giống như hàng cư sĩ. Lúc tiễn đưa người mất đến phần mộ, để thân họ nằm nghiêng bên phải dưới gió, mặt hướng về ánh mặt trời. Thiết lập một tòa cao trên hướng gió, trang hoàng đẹp đẽ, rồi cung thỉnh một vị tỳ kheo giỏi tụng đọc kinh điển, ngồi lên pháp tòa, rồi vì người mất mà tụng đọc kinh Vô Thường. Các người con hiếu thảo chớ ưu sầu khóc lóc, mà phải vì người mất, cùng với mọi người, chí tâm đốt nhang rãi hoa, cúng dường pháp tòa, kinh điển vi diệu và vị tỳ kheo trên pháp tòa. Sau đó, trở về chỗ ngồi, chắp tay cung kính, nhất tâm lắng nghe lời kinh. Vị tỳ kheo đó phải đọc tụng bài kinh từ từ. Những ai nghe kinh tụng, mỗi người phải tự quán chiếu thân mình vô thường, chẳng bao lâu sẽ tan hoại, mà khởi tâm niệm xa lìa thế tục, nhập vào chánh định.

Sau khi vị tỳ kheo kia tụng đọc kinh xong, phải rãi hương hoa cúng dường, rồi cung thỉnh vị đó tụng đọc kinh chú vào ly nước sạch không có trùng ba mươi bảy biến, để rãi lên mình người mất. Lại cũng chú nguyện thanh tịnh vào nắm đất ba mươi bảy lần, rồi rãi lên mình người mất. Sau đó tùy ý gia đình, hoặc chôn, hoặc thiêu, hoặc bỏ thây người mất trong rừng. Nhờ lực nhân duyên công đức này, mà tất cả nghiệp chướng của hương linh trong trăm ngàn muôn ức kiếp như mười tội ác, bốn tội nặng, năm tội nghịch lớn, phỉ báng kinh điển Đại Thừa, v.v… tất cả trong một lúc đều tiêu hết. Thần thức hành giả sanh trước mặt Phật, được công đức lớn, khởi trí huệ, đoạn trừ vô minh hoặc, đắc sáu thần thông cùng trí tam minh, tiến vào Sơ Địa, đi khắp mười phương, cúng dường chư Phật, nghe thọ chánh pháp, từ từ tu tập vô biên phước huệ, rốt ráo chứng đắc đạo Bồ Đề vô thượng, chuyển bánh xe pháp, độ vô số chúng sanh, bước lên quả vị Đại Viên Tịch, thành đấng Chánh Giác Tối Thượng.

11/04/04
Thích Hằng Đạt
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12397)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13928)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10710)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10390)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11046)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11843)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13021)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13499)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33475)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11232)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12771)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12926)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11507)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17742)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11291)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11705)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11388)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18828)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12441)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11190)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13045)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15589)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11708)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11588)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12574)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12513)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13808)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12857)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12800)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13168)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12610)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12581)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11644)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11635)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12196)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12221)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19644)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11857)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11877)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16695)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12547)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14904)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15959)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12740)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12108)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11761)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11799)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13019)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 13111)
Đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng.
(Xem: 12363)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11702)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19701)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11041)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11150)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10291)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 10996)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10863)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9934)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11635)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant