Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Kinh Phạm Võng

28 Tháng Hai 201507:36(Xem: 13111)
Kinh Phạm Võng
KINH PHẠM VÕNG
NGHI TỤNG GIỚI BỒ-TÁT


HT Thích Trí Tịnh

Kinh Phạm Võng

Bài Tán Lư Hương

Lò Hương vừa ngún chiên đàn
Khói thơm ngào ngạt muôn ngàn cõi xa
Lòng con kính ngưỡng thiết-tha
Ngửa mong chư Phật thương mà chứng minh.
Nam-Mô Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật. (3 lần)

Bài Kệ Khai Kinh

Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu
Ngàn muôn ức kiếp dễ hay đâu
Con nay nghe thấy xin vâng giữ
Chân Nghĩa Như-Lai hiểu thật sâu.
Nam-Mô Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật. (3 lần)

Chúng thọ Bồ-Tát giới lắng nghe !
Quy-mạng Lô-Xá-Na,
Mười phương Kim-Cương Phật.
Đảnh lễ Đức Di-Lặc
Sẽ hạ-sanh thành Phật
Nay tụng ba tụ giới
Bồ-Tát đều cùng nghe.
Giới như đèn sáng lớn
Soi sáng đêm tối tăm.
Giới như gương báu sáng
Chiếu rõ tất cả pháp.
Giới như Châu Ma-Ni
Rưới của giúp kẻ nghèo.
Thoát khổ mau thành Phật
Chỉ giới này hơn cả.
Vì thế nên Bồ-Tát
Phải tinh-tấn giữ-gìn.
Già chết gần kề, Phật-Pháp sắp diệt, chư Đại-Đức


( Đại-chúng, chư Phật-Tử ) vì muốn đắc đạo nên nhất tâm cần cầu tinh tấn. Chư Phật do nhất tâm cần cầu tinh-tấn nên đặng chứng quả vô-thượng chánh-giác, huống là các pháp lành khác.
Nhân lúc còn mạnh khỏe, các Ngài phải gắng sức siêng tu pháp lành. Đâu nên chẳng gấp cầu đạo lại chần chờ đợi già yếu. Còn mong mỏi thú vui gì ?
Ngày nay đã qua. Mạng sống giảm lần,
Như cá cạn nước. Nào có vui chi !!

Hỏi : Chúng nhóm chưa ? ( Vị tụng giới hỏi )
Đáp : Chúng đã nhóm. ( Vị tri-sự đáp ).
Hỏi : Hòa-hiệp chăng ?
Đáp : Hòa-hiệp.
Hỏi : Chúng nhóm họp để làm gì ?
Đáp : Thuyết giới bố-tát.
Hỏi : Người chưa thọ giới Bồ-Tát và người không thanh-tịnh ra chưa ?
Đáp : Trong đây không có người chưa thọ giới Bồ-Tát và người không thanh-tịnh.
( Nếu có thì bảo ra rồi đáp rằng : - Người chưa thọ giới Bồ-Tát và không thanh-tịnh đã ra).
Hỏi : Có bao nhiêu vị Bồ-Tát khiếm-diện thuyết-dục và thanh-tịnh ?
Đáp : Trong đây không có Bồ-Tát khiếm-diện thuyết-dục và thanh-tịnh. ( Nếu có thời ra thuyết-dục. Nên ra thưa : - Chư Đại-Đức lóng nghe cho. Tôi là Bồ-Tát ... có lãnh giữ dục cho Bồ-Tát ... những việc làm đúng pháp của Tăng, Bồ-Tát ... giữ dục và thanh-tịnh ).

Chư Đại-Đức ! ( Đại-chúng, chư Phật-Tử ) Chắp tay chí tâm lóng nghe ! - Nay tôi sắp tụng lời tựa về pháp Đại-Thừa của Chư Phật. Đại-chúng lẳng-lặng lóng nghe. Trong đây vị nào biết mình có tội phải sám-hối. Sám-hối thời được an vui. Không sám-hối thì tội lỗi càng thêm nặng. Người không có lỗi thời yên lặng. Vì yên lặng nên biết đại-chúng thanh-tịnh.

Chư Đại-Đức ( Đại-chúng, chư Phật-Tử ) lóng nghe ! Sau khi đức Phật diệt-độ, trong thời mạt-pháp, nên phải tôn kính Ba-La-Đề-Mộc-Xoa. Ba-La-Đề-Mộc-Xoa chính là giới pháp nầy. Trì giới này thời như đi đêm tối gặp đèn sáng, như người nghèo được của báu, như bịnh được lành, như người tù được thả, như kẻ đi xa được về nhà . Nên biết rằng giới-pháp nầy là đức Thầy sáng-suốt của đại-chúng, không khác đức phật còn ở đời. Nếu không có lòng sợ tội, thời tâm lành khó nẩy nở. Cho nên trong Kinh có lời dạy : - Chớ xem thường lỗi nhỏ mà cho là không hại, giọt nước dầu nhỏ mà lần đầy cả chum lớn. Lúc tạo tội chừng trong giây phút, mà phải nghìn muôn năm chịu khổ nơi địa-ngục. Một phen bị đọa-lạc mất thân người, thời muôn đời khó đặng lại. Sắc trẻ không dừng, dường như ngựa chạy. Mạng người vô-thường, mau hơn nước dốc. Ngày nay dầu còn, khó bảo-đảm được ngày mai. Đại chúng, mỗi người nên nhất tâm cần cầu tinh tấn. Chớ biếng-nhác trễ lười, phóng túng ngủ nghỉ. Ban đêm phải nhiếp tâm niệm Phật tham-thiền, chớ để thời gian luống qua vô-ích, mà sau này phải ăn-năn. Đại-chúng mỗi người nên nhất tâm cung-kính y theo giới nầy, như pháp tu-hành, cần nên học tập.

Chư Đại-Đức ! ( Đại-chúng, chư Phật-Tử ) nay là ngày thứ mười lăm có trăng (mười bốn không trăng), làm phép Bố-Tát tụng Bồ-Tát giới. Đại chúng nên nhất tâm nghe kỹ.

Ai có tội thời phát lồ. Người không tội thời im-lặng. Vì im-lặng nên biết Đại-chúng thanh-tịnh, có thể tụng giới Bồ-Tát. Tội đã tụng lời tựa của giới Bồ-Tát rồi.

Nay xin hỏi Đại-chúng đây được thanh tịnh không ?
( hỏi 3 lần)

Thưa Đại-chúng ! Trong đây thanh-tịnh, vì im-lặng. Việc này xin nhận biết như vậy.
Nam-Mô Phạm-Võng Hội-Thượng Phật Bồ-Tát. (3 lần)

Phật Thuyết
PHẠM-VÕNG KINH
BỒ-TÁT TÂM-ĐỊA PHẨM

Nhà Dao-Tần, Tam-Tạng Pháp-Sư
CƯU-MA-LA-THẬP Hán dịch
Hòa-Thượng THÍCH TRÍ TỊNH Việt dịch

I.- LÔ-XÁ-NA PHẬT :

Bấy giờ, đức Phật Lô-Xá-Na vì trong đại-chúng lược giảng “ Tâm-Địa ” như chừng đầu sợi lông trong số trăm nghìn hằng-hà-sa bất-khả-thuyết pháp-môn.
Ngài kết “ Tâm-Địa đây chính là lời của tất cả Phật thời quá-khứ đã giảng, tất cả Phật thời vị-lai sẽ giảng và tất cả Phật thời hiện-tại đương giảng. Cũng là pháp-môn mà tất cả Bồ-Tát đã học, sẽ học và đương học.
Ta đã từng trăm A-Tăng-Kỳ kiếp tu-tập tâm-địa nầy, do đó ta được hiệu là Lô-Xá-Na. Chư Phật ! Các Ngài đem lời giảng của ta đây hầu mở con đường tâm-địa cho hết thảy chúng-sanh ”.
Liền đó, từ trên Tòa Thiên-Quang Sư-Tử rực-rỡ nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, đức Phật Lô-Xá-Na phóng ra những tia sáng. Trong tia sáng ấy có tiếng nói với chư Phật đang ngự trên nghìn cánh sen báu : “ Các Ngài thọ-trì phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn của ta đây, rồi tuần tự đem giảng lại cho nghìn trăm ức Thích-Ca cùng tất cả chúng-sanh. Ai nấy đều nên thọ-trì đọc tụng và nhất-tâm vâng làm ”.
Sau khi lãnh-thọ phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn, chư Phật đang ngự trên nghìn cánh sen báu cùng nghìn trăm ức đức Thích-Ca đồng đứng dậy rời khỏi tòa Sư-Tử. Toàn thân của các Ngài chiếu ra vô-số tia sáng. Trong mỗi tia sáng ấy đều hóa hiện vô-lượng đức Phật, đồng thời tung lên vô-lượng hoa đẹp xanh, vàng, đỏ, trắng để cúng-dường đức Phật Lô-Xá-Na. Cúng-dường xong, chư Phật từ tạ trở về.
Khi rời khỏi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, chư Phật vào chánh-định thể tánh hư-không hoa-quang, mỗi Ngài trở lại chốn cũ, dưới cội Bồ-Đề nơi cõi Diêm-Phù.
Sau khi ra khỏi chánh-định thể-tánh hư-không hoa-quang, đức Phật mới ngự trên tòa Kim-Cương Thiên-Quang-Vương và Diệu-Quang-Đường mà giảng về Thập Thế-Giới-Hải.
Rồi đức Phật giảng pháp Thập-Trụ nơi cung Đế-Thích, giảng pháp Thập-Hạnh nơi cung trời Diệm-Ma, giảng pháp Thập Hồi-Hướng nơi cung trời Đâu-Xuất, giảng pháp Thập Thiền-Định nơi cung trời Hóa-Lạc, giảng pháp Thập-Địa nơi cung Trời Tha-Hóa, giảng pháp Thập Kim-Cương cõi Sơ-Thiền, giảng pháp Thập-Nhẫn nơi cõi Nhị-Thiền, giảng pháp Thập-Nguyện nơi cõi Tam-Thiền, và sau cùng ở Tứ-Thiền nơi cung của Đại-Tự-Tại Thiên-Vương, đức Phật giảng Phẩm Tâm-Địa Pháp-Môn mà thủa trước đức Phật Lô-Xá-Na đã giảng ở thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng. Tất cả nghìn trăm ức đức Thích-Ca ở nơi Thế-giới của mình đều giảng nói như thế cả. ( Như trong phẩm “ Hiền Kiếp ” đã nói ).

II.- THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT :

Bấy giờ, đức Thích-Ca Mâu-Ni, từ lúc sơ-khởi hiện thân nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng, rồi qua phương Đông đến tại cung của Thiên-Vương, diễn nói kinh
“ Ma-Thọ-Hóa ”. Sau đó, Ngài giáng-sanh nơi cõi Nam-Diêm-Phù-Đề tại nước Ca-Tỳ-La, Vua Bạch-Tịnh là thân-phụ, và Hoàng-Hậu Ma-Gia là sinh mẫu, nhũ-danh của Ngài là Tất-Đạt-Đa. Xuất gia bảy năm, ba mươi tuổi thành đạo hiệu Ngài là Thích-Ca Mâu-Ni Phật. Từ Bửu-Tòa Kim-Cương Hoa-Quang nơi đạo-tràng Tịch-diệt nhẫn đến nơi cung của Đại-Tự-Tại Thiên-Vương, trong mười nơi ấy đức Phật tuần-tự ngự đến thuyết-pháp. Lúc đó nhơn khi xem bửu-tràng mành lưới của Đại-Phạm Thiên-Vương, đức Phật vì đại-chúng mà giảng Kinh Phạm-Võng.
Ngài dạy rằng : - Vô-lượng thế-giới dường như là lỗ lưới. Mỗi thế-giới đều khác nhau cả, khác nhau đến số vô-lượng. Giáo-pháp của Phật cũng như vậy.
Đức Phật đã tám nghìn lần đến thế-giới Ta-Bà nầy, ngự trên Bửu-Tòa Kim-Cương Hoa-Quang nhẫn đến ngự nơi cung của Đại-Tự-Tại Thiên-Vương, lược giảng
“ Tâm-Địa Pháp-Môn ” cho cả thảy đại-chúng trong những Pháp-Hội ấy. Sau đó từ cung của Thiên-Vương, đức Phật trở xuống ngự dưới cội Bồ-Đề nơi cõi Diêm-Phù, vì tất cả chúng-sanh trên quả đất nầy, hạng người Phàm ngu tối mà giảng một giới-pháp Kim-Cương Quang-Minh Bửu-Giới. Giới-Pháp nầy là lời thường trì tụng của Phật-Lô-Xá-Na, khi Ngài mới phát Bồ-Đề tâm trong thời kỳ tu nhân của Ngài. Giới pháp nầy cũng chính là bổn-nguyên của tất cả Phật, là bổn-nguyên của tất cả Bồ-Tát và là chủng-tử của Phật-Tánh. Tất cả chúng-sanh đều có Phật-Tánh. Tất cả ý-thức, sắc, tâm, là tình, là tâm đều vào trong phạm-vi giới-pháp Phật-Tánh. Vì chắc-chắn thường có chánh-nhân, nên chắc-chắn Pháp-Thân thường-trụ. Mười Ba-La-Đề-Mộc-Xoa như thế xuất hiện trong đời. Giới-pháp nầy là chỗ kính-trọng thọ-trì của tất cả chúng-sanh trong ba thủa. Giờ đây, đức Phật sẽ vì trong đại-chúng nầy mà giảng lại Giới-Phẩm Vô-Tận-Tạng, là Giới-Phẩm của tất cả chúng-sanh, bổn-nguyên tự-tánh thanh-tịnh.

Nay ta là Lô-Xá-Na
Đương ngồi trên đài Liên-Hoa.
Trên nghìn cánh sen đơm vòng
Lại hiện ra nghìn Thích-Ca.
Mỗi cánh sen trăm ức cõi
Mỗi cõi một Phật Thích-Ca.
Đều ngồi dưới cội Bồ-Đề
Đồng thời thành chánh-giác đạo.
Nghìn trăm ức Phật như vậy
Lô-Xá-Na là bổn thân.
Nghìn trăm ức Phật Thích-Ca
Đều đem theo vi-trần chúng
Cùng nhau đến tại chỗ ta
Để nghe ta tụng Phật-Giới,
Ta liền giảng môn Cam-Lộ.
Bây giờ nghìn trăm ức Phật,
Trở về đạo-tràng của mình,
Đều ngồi nơi cội Bồ-Đề
Tụng mười trọng, bốn-mươi-tám
Giới của Bổn-Sư Xá-Na,
Giới như vừng nhựt-nguyệt sáng,
Cũng như chuỗi báu ngọc châu,
Chúng Bồ-Tát như vi-trần
Do giới này mà thành Phật,
Đây là đức Xá-Na tụng
Ta đây cũng tụng như vậy.
Các ông tân-học Bồ-tát
Phải cung kính thọ trì-giới !
Khi thọ trì giới nầy rồi
Nên truyền lại cho chúng-sanh,
Lắng nghe ta đang trì tụng
Pháp Ba-La-Đề-Mộc-Xoa
Là giới-tạng trong Phật-Pháp.
Đại-Chúng lòng nên tin chắc :
Các người là Phật sẽ thành,
Ta đây là Phật đã thành.
Thường có lòng tin như vậy
Thời giới-phẩm đã tròn-vẹn
Tất cả những người có tâm
Đều nên nhiếp hộ Phật-Giới.
Chúng-sanh nào thọ Phật-Giới
Chính là vào hàng chư Phật.
Đã đồng hàng bực Đại-Giác
Mới thật là con chư Phật.
Đại-Chúng đều nên cung-kính
Chí tâm nghe lời ta tụng.

III.- ĐỨC PHẬT KIẾT BỒ-TÁT GIỚI :

Thủa ấy, đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni, lúc mới thành đạo vô-thượng chánh-giác trong khi ngồi dưới cội Bồ-Đề, Ngài bắt đầu kiết “ Bồ-Tát Giới ”. Ngài dạy :
Hiếu thuận với cha mẹ, Sư-Tăng, Tam-Bảo. Hiếu thuận pháp chí-đạo. Hiếu gọi là giới, cũng gọi là cấm ngăn. Liền đó, từ nơi miệng, đức Phật phóng ra vô-lượng tia sáng. Bấy-giờ có đến trăm vạn ức đại-chúng, các Bồ-Tát, mười tám Phạm-Thiên, sáu cõi Trời Dục, mười sáu đại Quốc-vương đồng chắp tay chí tâm nghe đức Phật tụng Giới-Pháp đại-thừa của tất cả chư Phật.
Đức Phật nói với các vị Bồ-Tát : Nay ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới-pháp của chư Phật. Tất cả hàng Bồ-Tát sơ phát tâm, nhẫn đến các Bồ-Tát thập Phát-Thú. Thập Trưởng-Dưỡng, Thập Kim-Cương, Thập-Địa cũng tụng giới ấy. Vì thế nên giới-quang từ miệng ta phóng ra. Phóng quang là vì có duyên do, chớ chẳng phải vô cớ. Giới-Quang ấy chẳng phải màu xanh, vàng, đỏ, trắng và đen, chẳng phải sắc-pháp, cũng chẳng phải tâm-pháp, chẳng phải pháp-hữu, pháp-vô, cũng chẳng phải pháp nhân, pháp quả. Nó chính là bổn-nguyên của chư Phật, là căn-bổn của chúng Phật-Tử. Vì thế nên chúng Phật-Tử phải thọ-trì, phải đọc tụng, phải học kỹ giới-pháp nầy.
Chúng Phật-Tử lóng nghe ! Nếu là người thọ giới Bồ-Tát nầy, không luận là Quốc-Vương Thái-Tử, các Quan-chức hay Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, không luận là chư Thiên cõi Sắc, cõi Dục, không luận là hàng thứ-dân, huỳnh-môn, dâm-nam, dâm-nữ hay hàng nô-tỳ, cũng không luận là tám bộ quỷ-thần, thần Kim-Cương hay loài súc-sanh nhẫn đến kẻ biến-hóa hễ ai nhận hiểu được lời truyền giới của Pháp-Sư thời đều thọ đặng giới, và đều gọi là thanh-tịnh thứ nhất.

IV.- MƯỜI GIỚI TRỌNG :

Đức Phật bảo các Phật-Tử rằng :
Có mười điều giới trọng. Nếu người thọ giới Bồ-Tát mà không tụng điều giới nầy, thời người ấy không phải Bồ-Tát, không phải Phật-Tử. Chính ta cũng tụng như vậy. Tất cả Bồ-Tát đã học, sẽ học và đương học. Đã lược giảng xong tướng-trạng của giới Bồ-Tát cần nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì. Đức Phật dạy :

1.- Giới sát sanh :

Nếu Phật-Tử, hoặc tự mình giết, bảo người giết, phương tiện giết, khen tặng sự giết, thấy giết mà tùy-hỉ, nhẫn đến dùng bùa chú để giết : Nhân giết, duyên giết, cách-thức giết, nghiệp giết. Phàm tất cả loài hữu-tình có mạng sống đều không được cố ý giết. Là Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận, lập thế cứu giúp tất cả chúng-sanh, mà trái lại tự phóng tâm nỡ lòng sát-sanh, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

2.- Giới trộm cướp :

Nếu Phật-Tử tự mình trộm cướp, bảo người trộm cướp, phương-tiện trộm cướp, nhẫn đến dùng bùa chú trộm cướp : Nhân trộm cướp, duyên trộm cướp, cách thức trộm cướp, nghiệp trộm cướp. Tất cả tài-vật có chủ, dầu là của quỷ-thần hay kẻ giặc cướp, nhẫn đến một cây kim, một ngọn cỏ đều không đặng trộm cướp. Là Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận, thường giúp cho mọi người được phước, được vui, mà trái lại trộm cướp tài-vật của người, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

3.- Giới dâm :

Nếu Phật-Tử, tự mình dâm dục, bảo người dâm-dục, với tất cả phụ-nữ, các loài cái, loài mái, cho đến Thiên-Nữ, Quỷ-nữ, Thần-nữ cùng phi-đạo mà hành dâm : Nhân dâm-dục, duyên dâm-dục, cách-thức dâm-dục, nghiệp dâm-dục. Là Phật-Tử, đối với tất cả không được cố dâm-dục. Lẽ ra phải có lòng hiếu-thuận, cứu-độ tất cả những chúng-sanh, đem pháp thanh-tịnh khuyên dạy người, mà trái lại không có tâm từ-bi, làm cho mọi người sanh việc dâm-dục, không lựa súc-sanh, cho đến hành-dâm với mẹ, con, chị, em trong lục thân, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

4.- Giới vọng :

Nếu Phật-Tử, mình nói vọng-ngữ, bảo người vọng-ngữ, phương-tiện vọng-ngữ : Nhân vọng-ngữ, duyên vọng-ngữ, cách-thức vọng-ngữ, nghiệp vọng-ngữ. Nhẫn đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, hoặc thân vọng-ngữ, tâm vọng-ngữ. Là Phật-Tử, lẽ ra phải luôn luôn chánh-ngữ, chánh-kiến, và cũng làm cho tất cả chúng-sanh có chánh-ngữ, chánh-kiến, mà trái lại làm cho mọi người tà-ngữ, tà-kiến, tà-nghiệp, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

5.- Giới bán rượu :

Nếu Phật-Tử, tự mình bán rượu, bảo người bán rượu : Nhân bán rượu, duyên bán rượu, nghiệp bán rượu, - Tất cả rượu không được bán - Rượu là nhân-duyên sanh tội lỗi. Là Phật-Tử, lẽ ra phải làm cho tất cả chúng-sanh có trí-tuệ sáng-suốt, mà trái lại đem sự mê say điên-dảo cho tất cả chúng-sanh, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

6.- Giới rao lỗi của tứ chúng :

Nếu Phật-Tử, tự miệng rao nói tội lỗi, của Bồ-Tát xuất-gia, Bồ-Tát tại-gia, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, hoặc bảo người rao nói những tội lỗi ấy : Nhân rao nói tội lỗi, duyên rao nói tội lỗi, cách-thức rao nói tội-lỗi, nghiệp rao nói tội-lỗi. Là Phật-Tử, khi nghe những kẻ ác, ngoại-đạo cùng người nhị-thừa nói những điều phi-pháp, trái Luật trong Phật-Pháp, thời phải luôn luôn có lòng từ-bi giáo-hóa những kẻ ác ấy cho họ sanh tín-tâm lành đối với đại-thừa, mà trái lại Phật-Tử lại tự mình rao nói những tội lỗi trong Phật-Pháp, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

7.- Giới tự khen mình chê người :

Nếu Phật-Tử, tự khen mình chê người, cũng bảo người khác khen ngợi mình chê người : Nhân chê người, duyên chê người, cách thức chê người, nghiệp chê người. Là Phật-Tử, lẽ ra phải thay thế chịu những sự khinh chê khổ-nhục cho tất cả chúng-sanh, mình nhận lấy việc xấu, nhường cho người việc tốt. Nếu Phật-Tử tự phô dương tài-đức của mình mà dìm che điều hay tốt của người, làm cho người bị khinh chê, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

8.- Giới bỏn sẻn thêm mắng đuổi :

Nếu Phật-Tử, tự mình bỏn-sẻn, bảo người bỏn-sẻn : Nhân bỏn-sẻn, duyên bỏn-sẻn, cách-thức bỏn-sẻn, nghiệp bỏn-sẻn. Phật-Tử khi thấy những người bần-cùng đến cầu xin, phải cấp cho theo chỗ cần dùng của họ. Mà Phật-Tử lại đem lòng giận ghét, cho đến không cho một mảy, có người đến cầu học giáo-pháp cũng chẳng nói một kệ một câu, lại còn xua đuổi quở mắng, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

9.- Giới giận hờn không nguôi :

Nếu Phật-Tử, tự mình giận, bảo người giận : Nhân giận, duyên giận, cách thức giận, nghiệp giận. Người Phật-Tử lẽ ra phải làm cho tất cả chúng-sanh được những căn lành không gây gổ, thường có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận. Mà trái lại, đối với trong tất cả chúng-sanh, cho đến trong loài phi chúng-sanh, đem lời ác mạ-nhục, còn thêm dùng tay, chân, dao, gậy để đánh đập mà vẫn chưa hả dạ, cho đến nạn-nhân kia lấy lời nhỏ nhẹ xin lỗi, cầu sám-hối tạ-tội, nhưng vẫn còn không hết giận, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

10.- Giới hủy-báng Tam-Bảo :

Nếu Phật-Tử, tự mình hủy-báng Tam-Bảo, xúi người hủy-báng Tam-Bảo : Nhân hủy-báng, duyên hủy-báng, cách-thức hủy-báng, nghiệp hủy-báng. Phật-Tử nghe một lời hủy-báng Tam-Bảo của ngoại-đạo và kẻ ác, còn đau lòng như ba trăm cây nhọn đâm vào tim mình, huống là tự miệng mình hủy-báng ! Không có đức tin và lòng hiếu-thuận đối với Tam-Bảo, lại còn giúp sức cho những kẻ ác, kẻ tà-kiến hủy-báng nữa, Phật-Tử này phạm “ Bồ-Tát Ba-La-Di tội”.

V.- ĐỨC PHẬT KẾT RĂN :

Nầy các Phật-Tử ! Trên đây là mười giới trọng của Bồ-Tát, các Phật-Tử cần nên học. Trong mười giới đó không nên trái phạm một giới nào cả, dầu một mảy nhỏ như vi-trần, huống chi phạm đủ cả mười giới ư ! Nếu có người nào trái phạm, thời người ấy hiện đời không được phát Bồ-Đề tâm, rồi cũng mất ngôi Quốc-Vương, ngôi Chuyển-Luân-Vương, ngôi Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, cũng mất những quả “ Thập Phát Thu ”, “ Thập Trưởng-Dưỡng ”, “ Thập Kim-Cương ”, “ Thập-Địa ”, tất cả diệu quả Phật-Tánh thường-trú đều mất, đọa trong ba ác-đạo, trong hai kiếp, ba kiếp chẳng được nghe danh-tự của cha mẹ và Tam-Bảo. Vì thế nên không được phạm một giới nào cả. Tất cả Bồ-Tát các Ngài đã học, sẽ học và hiện nay học. Mười giới như thế cần nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì. ( Trong phẩm “ Bát Nạn Oai Nghi ” có giảng rộng )

VI.- 48 ĐIỀU GIỚI KHINH :

Đức Phật bảo các vị Bồ-Tát rằng : Đã giảng mười giới trọng rồi, nay tôi sẽ nói về bốn mươi tám giới khinh.

1.- Giới không kính thầy bạn :

Nếu Phật-Tử, lúc sắp lãnh ngôi Quốc-Vương, ngôi Chuyển Luân-Vương, hay sắp lãnh chức Quan, trươcù nên thọ giới Bồ-Tát. Như thế tất cả Quỷ-thần cứu hộ thân Vua và thân các Quan, Chư Phật đều hoan hỷ.
Đã đắc giới rôài, Phật-Tử nên có lòng hiếu thuậncung kính. Nếu thấy có bực Thượng-Tọa, Hòa-Thượng, A-Xà-Lê, những bực Đại-Đức, đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước lạy chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều đúng như Pháp cúng dường, hoặc tự bán thân cho đến Quốc thành con cái, cùng bảy báu trăm vật để cung cấp các bực ấy. Nếu Phật-Tử lại sanh lòng kiêu mạn, sân hận, ngu-si, không chịu tiếp rước lạy chào, cho đến không chịu y theo Pháp mà cúng dường, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

2.- Giới uống rượu :

Nếu Phật-Tử cố uống rượu, mà rượu là thứ làm cho người uống hay sanh ra vô-lượng tội lỗi. Nếu tự tay trao chén rượu cho người uống sẽ mang ác báo : Năm trăm đời không tay, huống là tự uống. Cũng chẳng tự bảo người và tất cả chúng-sanh uống rượu, huống là tự mình uống ! Tất cả các thứ rượu, Phật-Tử không được uống. Nếu mình cố uống cùng bảo người uống, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

3.- Giới ăn thịt :

Nếu Phật-Tử cố ăn thịt, tất cả thịt của mọi loài chúng-sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thời mất lòng đại từ-bi, dứt giống Phâät-Tánh, tất cả chúng-sanh thấy đều tránh xa người này. Người ăn thịt măéc vô-lượng tội lỗi. Vì thế nên tất cả Phật-Tử không được ăn tâát cả thứ thịt của mọi loài chúng-sanh. Nếu cố ăn thịt, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

4.- Giới ăn ngũ-tân :

Nếu Phật-Tử, chẳng được ăn loại “ Ngũ tân ” loại hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ. Loại ngũ tân này gia vào trong tâát cả các thực phẩm đều không được ăn. Nếu cố ăn, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

5.- Giới không dạy người sám tội :

Nếu Phật-Tử khi thấy người phạm ngũ giới, bát giới, thập giới, phá giới, hay phạm thất nghịch, bát-nạn, tất cả tội phạm giới v. v. . . , phải khuyên bảo người ấy sám-hối. Nếu Phật-Tử chẳng khuyên bảo người phạm tôäi sám hối, lại cùng ở chung, đồng sống chung, đồng chúng Bồ-Tát, đồng thuyết giới, mà không cử tôäi người ấy, không nhắc người ấy sám-hối, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

6.- Giới không cúng dường thỉnh Pháp :

Nếu Phật-Tử, thấy có vị Pháp-Sư Đại-thừa hay những bực đồng học, đồng kiến, đồng hạnh Đại-thừa, từ trăm dặm nghìn dặm đến nơi Tăng phường, nhà cửa, thành ấp thời liền đứng dậy rước vào, đưa đi, lễ bái, cúng dường. Mỗi ngày ba thời cúng duờng, trăm thức uống ăn, giường ghế, thuốc men, tất cả đồ cần dùng giá đáng ba lượng vàng đều phải cấp hộ cho Pháp-Sư. Môãi ngày : Sáng, trưa và chiều, thường thỉnh Pháp-Sư thuyết Phápđảnh lễ. Không hề có lòng sân hận buồn rầu. Luôn thỉnh Pháp không mỏi nhàm, chỉ trọng Pháp chứ không kể thân. Nếu Phật-Tử không như thế thời phạm “ Khinh Cấu Tội ”.

7.- Giới không đi nghe Pháp :

Nếu Phật-Tử, hàng Tân-học Bồ-Tát, phàm nơi nào, chốn nào có giảng Kinh, Luật, phải mang Kinh, Luật đến chỗ Pháp-Sư để nghe giảng và thưa hỏi. Hoặc nơi núi rừng, trong vườn cây, chùa, nhà v.v. .. Tất cả chỗ thuyết pháp đều đến nghe học. Nếu Phật-Tử không đến nơi ấy để nghe Pháp cùng thưa hỏi, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

8.- Giới có tâm trái bỏ Đại-Thừa :

Nếu Phật-Tử, có quan niệm trái bỏ Kinh Luâät Đại-thừa thường trụ, cho rằng không phải của Phật nói mà đi thọ trì Kinh Luật tà kiến và tâá cả cấm giới của Thanh-văn Nhị-thừa cùng ngoại đạo ác kiến, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

9.- Giới không khán bịnh :

Nếu Phật-Tử, thấy tất cả người tật bệnh phải tận tâm cúng dường như cúng dường Phật. Trong tám phước điền, khán bệnh là “ Phước điền thứ nhất ”. Nếu như cha mẹ, sư Tăng cùng đệ-tử có bệnh, có tật, trăm thứ bệnh đau khổ, đều nên săn sóc cho được lành mạnh, Phật-tử lại vì lòng hờn giận không chăm nuôi, nhẫn đến thâáy trong tăng phường, thành ấp, nơi núi rừng đồng nội, đường xá có người tật bệnh mà không lo cứu tế, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

10.- Giới chứa khí cụ sát-sanh :

Nếu Phật-Tử không đặng cất chứa những binh khí, như dao, gậy, cung, tên, búa, giáo, v.v... cùng những đồ sát sanh như chài, lưới, rập, bẫy v.v... Là Phâät-Tử, dầu cho đến cha mẹ bị người giết, còn không báo thù, huống lại đi giết tất cả chúng-sanh ! Không được cất chứa những khí cụ sát sanh ! Nếu cố cất chứa, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
Mười giới như thế, cần nên học và kính trọng phụng trì. ( Trong sáu phẩm sau có giảng rộng )

11.- Giới đi sứ :

Nếu Phật-Tử, chẳng đặng vì quyền lợiác tâm mà đi thông sứ mạng cho hai nước hiệp hội quân trận, đem binh đánh nhau làm cho vô-lượng chúng-sanh bị giết hại. Là Phật-Tử còn không được vào, cùng qua lại trong quân trận, huống lại cố làm môi giới chiến tranh. Nếu cố làm, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

12.- Giới buôn bán phi pháp :

Nếu Phật-Tử cố bán người lành, tôi trai, tớ gái, lục-súc, buôn bán quan tài, ván cây, đồ đựng thây chết, còn không được tự mình buôn bán các thứ ấy, huống lại bảo người. Nếu cố tự buôn bán, hay bảo người buôn bán các thứ ấy, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

13.- Giới hủy-báng :

Nếu Phật-Tử, vì ác tâm, nơi người tôát, người lành, Pháp-sư, Sư-tăng, hoặc Quốc-vương và hàng quý nhân, vốn vô sự mà hủy báng là phạm bảy tội nghịch, mười giới trọng. Với cha, mẹ, anh, em, lục thân phải có lòng từ-bi, lòng hiếu thuận, mà trở lại vu khống cho là phạm tôäi nghịch, đọa nơi ác đạo, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

14.- Giới phóng hỏa :

Nếu Phật-Tử, vì tâm ác, phóng hỏa đốt núi, rừng, đồng nôäi. Từ tháng tư đến tháng chín phóng hỏa. Hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng cây của người và cung điện tài vật của Quỷ-thần. Tất cả chỗ có sanh vật không được cố thiêu đốt. Nếu cố thiêu đóát, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

15.- Giới dạy giáo-lý ngoài Đại-Thừa :

Nếu Phật-Tử, từ Phật đệ-tử, lục thân, tất cả thiện tri-thức, đến ngoại-đạo ác nhân, đều phải khuyên bảo thọ trì Kinh Luật Đại-thừa. Nên giảng cho hiểu nghĩa lý khiến phát Bồ-Đề Tâm, Thập-Phát-Thu, Thập Trưởng-Dưỡng Tâm, Thập Kim-Cương Tâm. Trong ba mươi tâm ấy, giảng cho họ hiểu Pháp dụng tuần thứ của mỗi món. Mà Phâät-tử lại vì ác tâm, sân tâm đem Kinh Luật của Thanh-Văn Nhị-thừa, cùng các bộ Luận của ngoại-đạo tà kiến để dạy ngang cho người, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

16.- Giới vì lợi mà giảng pháp lộn lạo :

Nếu Phật-Tử, phải tận-tâm học Kinh-Luật oai-nghi đại-thừa. Thông hiểu nghĩa-lý, khi thấy có hàng tân-học Bồ-Tát từ xa trăm dặm nghìn dặm đến cầu học Kinh Luật Đại-thừa, nên đúng như pháp giảng giải tất cả khổ-hạnh, hoặc đốt thân, đốt cánh tay. Nếu không đốt thân hay cánh tay, ngón tay cúng dường chư Phật thời không phải là hàng Bồ-Tát xuất-gia. Nhẫn đến xả thịt nơi thân mình cùng tay chân mà bố-thí cho tất cả những cọp, sói, sư-tử đói, cùng tất cả loài quỷ đói. Rồi sau mới tuần tự theo căn-cơ của mỗi người mà giảng chánh-pháp cho hàng tân-học ấy được mở thông tâm-ý. Nếu Phật-tử vì quyền-lợi, đáng dạy mà không dạy, lại giảng Kinh-Luật một cách điên-đảo, văn-tự lộn-xộn không có thứ lớp trước sau, thuyết-pháp có tánh cách hủy-báng Tam-Bảo, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

17.- Giới cậy thế-lực quyên tởi :

Nếu Phật-Tử, tự mình vì việc ăn uống tiền của, lợi-dưỡng, danh-dự mà thân-cận Quốc-Vương, Hoàng-Tử cùng các Quan, nương quyền cậy thế bức người để lấy tiền của, lại bảo người khác cũng cầu lợi như vậy. Tất cả sự cầu lợi ấy gọi là ác-cầu, đa-cầu, đều không có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

18.- Giới không thông hiểu mà làm thầy truyền giới :

Nếu Phật-Tử, phải học mười hai phần Kinh, thường tụng giới. Mỗi ngày sáu thời, nghiêm-trì Bồ-Tát giới, hiểu rõ nghĩa lý-tánh Phật-Tánh của giới. Nếu Phật-Tử không hiểu một kệ một câu cùng nhân-duyên của Giới-Luật, mà dối rằng thông hiểu, đó chính là dối gạt mình và cũng là dối gạt người khác. Không hiểu một Pháp, không biết một Luật mà lại đi làm Thầy truyền giới cho người. Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

19.- Giới lưỡng thiệt ( Lưỡi đôi chiều ) :

Nếu Phật-Tử, vì ác tâm, thấy Thầy Tỳ-Kheo trì-giới tay bưng lư-hương, tu hạnh Bồ-Tát, tự đi đâm thọc hai đầu, cho sanh sự bất hòa khinh-khi người hiền, tạo nhiều tội ác. Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

20.- Giới không phóng-sanh :

Nếu Phật-Tử, vì tâm từ-bi mà làm việc phóng-sanh. Tất cả nam-tử là cha ta, tất cả nữ-nhân là mẹ ta. Từ nhiều đời ta đều thác-sanh nơi đó. Vì lẽ ấy nên chúng-sanh trong lục-đạo đều là cha mẹ ta. Nếu giết chúng để ăn thịt, thời chính là giết cha mẹ ta, mà cũng là giết thân cũ của ta. Tất cả chất tứ-đại đều là bổn-thân bổn-thể của ta, cho nên phải thường làm việc phóng sanh và khuyên bảo người làm. Nếu lúc thấy người đời sát sanh, nên tìm cách cứu-hộ cho chúng được thoát khỏi nạn khổ ! Thường đem giới Bồ-Tát giảng dạy để cứu-độ chúng-sanh.
Nếu ngày cha mẹ hay anh chị em chết, nên thỉnh Pháp-Sư giảng Kinh-Luật Bồ-Tát giới. Người chết nhờ phước-đức ấy, hoặc được vãng-sanh Tịnh-Độ ra mắt chư Phật, hay thác-sanh trong cõi Trời, cõi Người. Nếu không làm các điều trên đây, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
Mười giới như thế cần nên học tập kính-trọng phụng-trì. ( Như trong phẩm “ Diệt tội ” giảng rõ mỗi giới )

21.- Giới đem sân báo sân đem đánh trả đánh :

Nếu Phật-Tử, không được đem giận trả giận, đem đánh trả đánh. Nếu cha mẹ anh em hay lục-thân bị người giết cũng chẳng được báo thù, hoặc quốc chủ bị người thí chết cũng chẳng được báo-thù. Giết sanh mạng để báo thù sanh mạng, đó là việc không thuận với hiếu đạo. Hãy còn không được chứa nuôi tôi tớ, rồi đánh đập mắng nhiếc chúng, mỗi ngày tam nghiệp tạo vô lượng tội, nhất là khẩu-nghiệp. Huống lại cố đi làm tội thất nghịch. Nếu xuất-gia Bồ-Tát không có lòng từ-bi cố báo-thù, nhẫn đến cố báo thù cho trong hàng lục-thân, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

22.- Giới kiêu mạn không thỉnh Pháp :

Nếu Phật-Tử, mới xuất-gia chưa thông hiểu Kinh-Luật, mà tự ỷ mình là trí-thức thông-minh, hoặc ỷ mình là cao quý, lớn tuổi, hoặc ỷ mình là giòng sang, con nhà quyền quý, hoặc ỷ mình học rộng, phước to giàu lớn v.v.. rồi sanh lòng kiêu-mạn mà không chịu học hỏi Kinh-Luật với các vị Pháp-Sư học đạo trước mình. Vị Pháp-Sư ấy hoặc dòng hèn, con nhà hạ tiện, tuổi trẻ, nghèo nàn, hèn-hạ hay có tật nguyền nhưng lại thiệt có đức hạnh cùng thông hiểu nhiều Kinh Luật. Hàng tân-học Bồ-Tát không được nhìn vào dòng giống vị Pháp-Sư mà không chịu đến học đạo-lý đại-thừa với vị ấy, Phật-Tử nếu như vậy thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

23.- Giới khinh ngạo không tận tâm dạy :

Nếu Phật-Tử, sau khi Phật nhập-diệt, lúc có tâm tốt muốn thọ giới Bồ-Tát, thời đối trước tượng Phật cùng tượng Bồ-Tát mà tự nguyện thọ giới. Nên ở trước tượng Phật và tượng Bồ-Tát sám-hối trong bảy ngày, hễ được thấy hảo tướngđắc giới. Như chưa thấy hảo tướng thời phải sám-hối 14 ngày, 21 ngày, hay đến cả năm, cầu thấy được hảo-tướng. Khi được thấy hảo-tướng rồi, thời được đối trước tượng Phật, Bồ-Tát mà thọ giới. Như chưa thấy hảo tướng thời dầu có đối trước tượng Phật thọ giới, vẫn không gọi là đắc giới. Nếu đối trước vị Pháp-Sư đã thọ Bồ-Tát mà thọ giới, thời không cần thấy hảo tướng. Tại sao vậy ? Vì vị Pháp-Sư ấy là chư sự truyền giới cho nhau, nên không cần hảo tướng. Hễ đối trước vị Pháp-Sư ấy mà thọ giới liền đắc giới, do vì hết lòng kính trọng nên đắc giới. Nếu ở trong vòng nghìn dặm, mà tìm không được vị Pháp-Sư truyền-giới, thời Phật-Tử đuọc phép đối trước tượng Phật và Bồ-Tát mà tự nguyện thọ giới Bồ-Tát, nhưng cần phải thấy hảo tướng.
Nếu các vị Pháp-Sư ỷ mình thông Kinh-Luật cùng giới-pháp đại-thừa, kết-giao với các nhà quyền quý, khi có hàng tân-học Bồ-Tát đến cầu học nghĩa Kinh, Luật, lại giận ghét, hay khinh ngạo, không chịu tận tâm chỉ bảo, vị nầy phạm “ Khinh cấu tội ”.

24.- Giới không tập học Đại-Thừa :

Nếu Phật-Tử, có Kinh Luật Đại-Thừa-Pháp chánh-kiến, chánh-tánh, chánh-pháp-thân của Phật, mà không chịu siêng học siêng tu, lại bỏ bảy của báu, trở học những sách luật tà-kiến của nhị-thừa, ngoại-đạo, thế-tục, đó mà làm mất giống Phật, là nhân-duyên chướng-đạo, chẳng phải thật hành đạo Bồ-Tát. Nếu cố làm như vậy, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

25.- Giới tri-Chúng vụng về :

Nếu Phật-Tử, sau khi Phật nhập-diệt làm Pháp-Sư, Giảng-Sư, Luật-Sư, Thiền-Sư Thủ-Tọa, Tri-Sự, Tri-Khách, phải có lòng từ-bi khéo hòa-giải trong chúng, khéo giữ-gìn tài vật của Tam-Bảo, chớ dùng vô-độ như của riêng mình, mà trở lại khuấy chúng gây gổ, kình-chống, lung lòng xài của Tam-Bảo, Phật-Tử này phạm
“ Khinh cấu tội ”.

26.- Giới riêng thọ lợi dưỡng :

Nếu Phật-Tử ở trước trong Tăng-phường, lúc sau thấy có khách Bồ-Tát Tỳ-Kheo đến hoặc nơi thành ấp nhà cửa của Tăng hay của Vua, nhẫn đến chỗ kiết-hạ an-cư cùng trong đại-hội ... chư Tăng ở trước phải rước đến đưa đi, cung cấp cho những đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà, phòng, giường, ghế v.v... Nếu tự mình không có, thì phải bán thân, bán con cái, lóc thịt thân mình mà bán, để sắm đồ cung cấp cho những khách Tăng ấy. Nếu có thí-chủ đến thỉnh chúng Tăng thọ trai, khách Tăng có dự phần, vị Tri-Sự phải theo thứ-tự phái Khách Tăng đi thọ trai. Nếu chư Tăng ở trước riêng đi thọ trai mà không phái Khách Tăng đi, thời vị Tri-Sự mắc vô-lượng tội, không đáng là hàng Sa-Môn không phải dòng Thích-Tử, nào khác gì loài súc-sanh. Phật-Tử nầy phạm “ Khinh cấu tội ”.

27.- Giới thọ biệt thỉnh :

Nếu Phật-Tử, tất cả chẳng được nhận của cúng-dường dành riêng về mình. Của cúng-dường nầy thuộc thập-phương Tăng, nếu nhận riêng thời là lấy của thập-phương Tăng đem về phần mình. Và của vật trong tám phước-điền : Chư Phật, Thánh-Nhân, các Sư-Tăng, cha, mẹ và người bịnh, tự mình riêng nhận dùng. Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

28.- Giới biệt thỉnh Tăng :

Nếu Phật-Tử có những hàng Bồ-Tát xuất-gia, Bồ-Tát tại gia và tất cả đàn-việt lúc muốn thỉnh Tăng để cúng-dường cầu-nguyện, nên vào Tăng-phường thưa với vị Tri-Sự. Vị Tri-Sự bảo rằng : Theo thứ-tự mà thỉnh thời được Thập-Phương Hiền-Thánh-Tăng. Mà người đời thỉnh riêng năm trăm vị A-La-Hán Bồ-Tát Tăng vẫn không bằng theo thứ-tự thỉnh một phàm-phu Tăng. Trong giáo-pháp của bảy đức Phật đều không có pháp thỉnh Tăng riêng. Nếu thỉnh Tăng riêng đó là pháp của ngoại-đạo, là không thuận với hiếu-đạo. Nếu Phật-Tử cố thỉnh riêng thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

29.- Giới tà mạng nuôi sống :

Nếu Phật-Tử dùng ác tâm vì lợi-dưỡng buôn bán nam-sắc, nữ-sắc, tự tay làm đồ ăn, tự xay, tự giã, xem tướng, bàn mộng, đoán sẽ sanh trai hay gái, bùa chú, pháp thuật, nghề-nghiệp, phương-pháp nuôi ó và chó săn, hòa-hiệp trăm thứ thuốc độc, nghìn thứ thuốc độc, độc rắn, độc sanh-kim, sanh-ngân, độc sâu cổ, đều không có lòng từ-bi, lòng hiếu-thuận. Nếu cố làm các điều như thế, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

30.- Giới quản-lý cho Bạch-Y :

Nếu Phật-Tử vì ác tâm, tự mình hủy-báng Tam-Bảo, giả tuồng kính mến, miệng thì nói không, mà hành-vi lại ở trong có, làm Quản-lý cho hàng bạch-y, vì hàng bạch-y làm mai làm mối cho nam cho nữ giao-hội dâm-sắc gây thành các nghiệp kiết-phược, những ngày lục-trai trong mỗi tháng, ba tháng trường trai trong mỗi năm, làm việc sát sanh, trộm cướp, phá-trai, phạm-giới. Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
Mười giới như thế, cần nên học hết lòng kính-trọng phụng-trì. ( Trong phẩm “ Chế Giới ” có giảng rõ )

31.- Giới không mua chuộc :

Nếu Phật-Tử, sau khi Phật nhập-diệt ở trong đời ác, thấy hàng ngoại-đạo, bọn giặc cướp cùng tất cả người ác đem bán hình tượng Phật, Bồ-Tát, cha mẹ, đem bán Kinh Luật, đem bán Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, cùng người hành đạo Bồ-Tát, kẻ phát tâm Bồ-Đề, để làm tay sai cho các quan hay làm tôi tớ cho mọi người. Phật-Tử thấy những sự như thế, nên có lòng từ-bi tìm cách cứu vớt. Nếu không đủ sức, Phật-Tử phải đi quyên tiền các nơi để chuộc hình tượng Phật, Bồ-Tát và tất cả Kinh Luật, chuộc Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, người tu hạnh Bồ-Tát, kẻ phát tâm Bồ-Đề. Nếu không chuộc, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

32.- Giới tổn hại chúng-sanh :

Nếu Phật-Tử, không được buôn bán dao, gậy, cung, tên những khí-giới sát-sanh. Không được chứa cân non giạ thiếu. Không được nương thế-lực quan quyền mà lấy tài vật của người. Không được ác tâm trói buộc người, và phá hoại việc thành-công của người. Không được nuôi mèo, chồn, heo, chó ... Nếu cố làm các điều trên, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

33.- Giới tà nghiệp giác quán :

Nếu Phật-Tử, không đặng vì ác-tâm đi xem tất cả nam nữ v.v... đánh nhau, hay quân trận binh tướng giặc cướp v.v... đấu chiến nhau. Cũng chẳng được đi xem hát, nghe nhạc, chơi cờ, đánh bạc, đá cầu, đá bóng v.v... cho đền bói xủ. Chẳng được làm tay sai cho kẻ trộm cướp. Nếu cố làm các điều trên, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

34.- Giới tạm bỏ Bồ-Đề tâm :

Nếu Phật-Tử, ngày đêm sáu thời đọc tụng giới Bồ-Tát nầy. Nên giữ gìn giới luật trong tất cả khi đi đứng nằm ngồi, vững chắc như kim-cương, nhe đeo trái nổi để qua biển lớn, như các Tỳ-Kheo bị cột bằng dây cỏ. Thường có tín tâm lành đối với đại-thừa. Tự biết rằng mình là Phật chưa thành, còn chư Phật là Phật đã thành, rồi phát Bồ-Đề-Tâm và giữ vững không thối chuyển. Nếu có một tâm-niệm xu-hướng theo Nhị-Thừa hay ngoại-đạo, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

35.- Giới không phát nguyện :

Nếu Phật-Tử, nên phát những điều nguyện lớn : Nguyện ở hiếu thuận với cha mẹ, Sư-Tăng - Nguyện đặng gặp được thầy tốt - Bạn Thiện-Tri-Thức - Thường dạy bảo tôi các Kinh Luật Đại-Thừa - dạy cho tôi về “ Thập-Phát-Thu ” - “ Thập-Trưởng-Dưỡng ” - “Thập-Kim-Cương ” - “ Thập-Địa ” - Cho tôi hiểu rõ để tu hành đúng chánh-pháp - Nguyện giữ vững giới của Phật : Thà chết chớ không chịu phai lòng. Nếu tất cả Phật-Tử không phát những điều nguyện trên đây thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

36.- Giới không phát thệ :

Nếu Phật-Tử khi đã phát mười điều nguyện lớn trên đây rồi, phải giữ gìn giới-cấm của Phật. Tự thệ rằng : Thà nhảy vào đống lửa, hố sâu, núi dao, quyết không cùng với tất cả người nữ (nam) làm điều bất-tịnh để phạm điều cấm trong Kinh Luật của Tam-Thế chư Phật.
Lại thệ rằng : Thà lấy lưới sắt nóng quấn thân mình cả nghìn lớp, quyết không để thân nầy phá giới mà thọ những đồ y-phục của tín tâm đàn-việt. Thà chịu nuốt hòn sắt cháy đỏ và uống nước đồng sôi mãi đến trăm nghìn kiếp quyết không để miệng này phá giới mà ăn các thứ thực-phẩm của tín-tâm đàn-việt. Thà nằm trên đống lửa lớn, trên tấm sắt nóng, quyết không để thân này phá giới mà nhận lấy các thứ giường ghế của tín-tâm đàn-việt. Thà trong một hai kiếp chịu cho cả trăm gươm giáo đâm vào mình, quyết không để thân này phá giới mà thọ các thứ thuốc men của tín-tâm đàn-việt. Thà nhảy vào vạc dầu sôi trong trăm nghìn kiếp quyết không để thân này phá giới mà lãnh những phòng nhà, ruộng vườn, đất đai của tín-tâm đàn-việt.
- Lại phát thệ rằng : Thà dùng chày sắt đập thân nầy từ đầu tới chân nát như tro bụi, quyết không để thân nầy phá giớithọ sự cung-kính lễ-bái của tín-tâm đàn-việt.
- Lại phát thệ rằng : Thà lấy trăm nghìn lưỡi gươm giáo khoét đôi mắt mình quyết không đem tâm phá giới này mà nhìn xem sắc đẹp của người. Thà lấy trăm nghìn dùi sắt đâm thủng lỗ tai mình trải trong một hai kiếp, quyết không đem tâm phá giới này mà nghe tiếng tốt giọng hay. Thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt bỏ lỗ mũi mình, quyết không đem tâm phá giới này mà ngửi các mùi thơm. Thà lấy trăm nghìn lưỡi dao cắt đứt lưỡi mình, quyết không đem tâm phá giới này, mà ăn các thứ tinh-thực của người. Thà lấy búa bén chặt chém thân thể mình, quyết không đem tâm phá giới này mà tham mặt đồ tốt.
- Lại phát nguyện : Nguyện cho tất cả chúng-sanh đều được thành Phật.
Nếu Phật-Tử không phát những điều thệ này, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

37.- Giới vào chỗ hiểm nạn :

Nếu Phật-Tử, mỗi năm phải hai kỳ hành đầu đà, mùa Đông mùa Hạ thời ngồi thiền kiết-hạ an-cư. Thường dùng nhành dương, nước tro, ba Y, bát, bình, tọa-cụ, tích-trượng, hộp lư-hương, đãy lược nước, khăn tay, con dao, đá lửa, cái nhíp, giường dây, kinh, luật, tượng Phật, tượng Bồ-Tát. Khi Phật-tử hành đầu-đà cùng lúc du-phương đi lại trăm dặm ngàn dặm, mười tám món này mang luôn bên mình. Đây là hai kỳ hành đầu-đà trong mỗi năm : Từ rằm tháng Giêng đến rằm tháng Ba, và từ rằm tháng Tám đến rằm tháng Mười. Trong hai kỳ hành đầu-đà luôn mang theo mình mười tám món ấy như chim hai cánh.
Nếu đến ngày Bố-tát, hàng tân-học Phật-tử, mỗi nửa tháng luôn Bố-tát, tụng mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh.
Lúc tụng giới, nên ở trước tượng Phật và Bồ-Tát mà tụng. Chỉ có một người Bố-Tát thời một người tụng, nếu hai người, ba người nhẫn đến trăm nghìn người cũng một người tụng, còn bao nhiêu thời lắng nghe. Người tụng ngồi cao người nghe ngồi thấp. Mỗi người đều đắp y hoại-sắc chín điều, bảy điều và năm điều. Trong lúc Kiết-Hạ an-cư cũng phải mỗi việc đúng theo phép tắc.
Lúc hành đầu-đà chớ đi đến chỗ có tai nạn, cõi nước hiểm-ác, nhà vua hung bạo, đất đai gập-gềnh, cỏ cây rậm-rạp, chỗ có giống sư-tử, cọp, sói, cùng lụt, bão, nạn cháy, giặc cướp, đường xá có rắn rít ... Tất cả nơi hiểm nạn ấy điều không được đến. Chẳng những lúc hành đầu-đà, mà lúc kiết-hạ, an-cư cũng không được vào những chỗ hiểm-nạn ấy.
Nếu cố vào những nơi ấy, Phật-Tử này phạm
“ Khinh cấu tội ”.

38.- Giới trái thứ tự tôn ty :

Nếu Phật-Tử, phải theo thứ-tự đúng pháp mà ngồi : Người thọ giới trước thời ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau. Không luận già, trẻ, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, người sang như Quốc-Vương, Hoàng-Tử, nhẫn đến kẻ hèn như Huỳnh-môn, tôi-tớ v.v... tất cả đều nên theo thứ-tự mà ngồi : Người thọ giới trước thời ngồi trước, người thọ giới sau thời ngồi sau.
Không được như hàng ngoại-đạo, si-mê, hoặc già, hoặc trẻ, ngồi trước sau lộn-xộn không có thứ-tự, không khác cách ngồi của bọn binh-nô. Trong Phật-Pháp của Ta, hễ người thọ giới trước thời ngồi trước, còn người thọ giới sau thời ngồi sau.
Nếu Phật-Tử không theo thứ tự đúng pháp mà ngồi, thời phạm “ Khinh-Cấu-Tội ”.

39.- Giới không tu phước-huệ :

Nếu Phật-Tử, thường phải khuyến hóa tất cả mọi người kiến tạo Tăng-Phường nơi núi rừng vườn ruộng, xây dựng Phật-Tháp, chỗ an-cư, tọa-thiền trong mùa Đông mùa Hạ, tất cả những cơ-sở hành-đạo đều nên kiến-tạo.
Người Phật-Tử phải giảng-thuyết Kinh Luật Đại-Thừa cho tất cả chúng-sanh. Lúc tật-bịnh, nước có nạn có giặc, ngày cha, mẹ, anh, em, Hòa-Thượng, A-Xà-Lê khuất-tịch, và mỗi tuần thất, nhẫn đến bảy tuần thất, cũng nên giảng thuyết Kinh Luật Đại-Thừa. Tất cả những Trai-hội cầu nguyện, những lúc đi làm ăn, những khi có tai nạn lụt, bão, hỏa-hoạn, ghe thuyền trôi giạt nơi sông to biển lớn, gặp quỷ La-Sát v.v... đều cũng đọc tụng Kinh Luật Đại-Thừa. Nhẫn đến tất cả tội báo, tam ác, bát nạn. Thất nghịch gông cùm xiềng xích trói buộc tay chân, hoặc người nhiều dâm, nhiều sân, nhiều ngu si, nhiều tật bệnh, đều nên giảng Kinh Luật Đại-Thừa nầy.
Nếu hàng tân-học Phật-Tử không thực-hành như trên đây, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.
Chín giới như thế cần nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì. ( Trong phẩm “ Phạm Đàn ” có giảng rộng )

40.- Giới không bình đẳng truyền giới :

Nếu Phật-Tử, lúc cho người thọ giới không được lựa chọn. Tất cả hàng Quốc-Vương, Hoàng-Tử, các Quan, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, Tín-Nam, Tín-Nữ, Dâm-Nam, Dâm-Nữ, Phạm-Thiên trong 18 cõi Sắc, Thiên-Tử trong sáu cõi dục, người thiếu căn, hai căn, huỳnh-môn, tôi-tớ và tất cả Quỷ-Thần đều được thọ giới. Tất cả y-phục ngọa-cụ nên bảo phải hòa màu : Xanh, đỏ, đen, tím nhuộm thành hoại sắc cho hiệp với đạo.
Trong tất cả quốc-độ, theo y-phục của người trong nước mặc, y-phục của thầy Tỳ-Kheo đều phải khác với y-phục của người thế-tục.
Khi ai muốn thọ Bồ-Tát giới, vị Sư phải hỏi rằng : Trong đời nầy ngươi có phạm tội thất-nghịch chăng ? Bồ-Tát Pháp-Sư không được cho người phạm tội thất-nghịch thọ giới trong đời nầy.
Đây là tội thất-nghịch : Ác-tâm làm thân Phật chảy máu, hại bực Thánh-Nhân, giết cha, giết mẹ, giết Hòa-Thượng, giết A-Xà-Lê, phá Yết-Ma-Tăng, chuyển Pháp-Luân-Tăng Nếu phạm tội thất-nghịch, thời hiện đời không đắc giới. Ngoài ra tất cả người đều được thọ giới.
Theo pháp của người xuất-gia, không lạy Quốc-Vương, cha mẹ, lục thân và quỷ-thần.
Phàm hễ ai nhận được hiểu lời nói của Pháp-Sư đều được thọ giới. Mà có người từ trăm dặm nghìn dặm đến cầu Pháp, nếu Bồ-Tát Pháp-Sư vì ác tâm, sân tâm, mà không mau mắn truyền giới Bồ-Tát cho người ấy, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

41.- Giới vì lợi làm thầy :

Nếu Phật-Tử, giáo hóa người sanh lòng tin tưởng Pháp đại-thừa, Bồ-Tát làm Pháp-Sư giáo giới cho người. Lúc thấy có người muốn thọ giới Bồ-Tát, nên bảo người ấy thỉnh hai Đại-Sư : Hòa-Thượng và A-Xà-Lê.
Phải hỏi người ấy có phạm tội thất-nghịch không ? Nếu người ấy hiện đời có phạm tội thất-nghịch, thời Pháp-Sư không được cho người ấy thọ giới. Như không phạm tội thất-nghịch thời cho thọ giới. Nếu có phạm trong mười giới trọng, phải bảo người ấy sám-hối, đối trước tượng Phật và Bồ-Tát. Ngày đêm sáu thời tụng giới Bồ-Tát tha-thiết đảnh-lễ Tam-Thế Chư Phật cho được thấy hảo tướng. Sám-hối như thế trong bảy ngày, mười bốn ngày, hai mươi mốt ngày, nhẫn đến trọn năm mãi đến chừng nào thấy được hảo-tướng. Đây là hảo-tướng : Thấy Phật đến xoa đầu mình, thấy quang-minh, thấy hoa báu v.v... các thứ cảnh tưởng lạ. Thấy được những hảo tướng ấy là triệu chứng tội đã tiêu diệt. Nếu không được thấy hảo tướng, dầu có sám-hối vẫn vô ích. Người này hiện đời cũng không đắc giới, nhưng đặng tăng ích thọ giới.
Nếu là người phạm trong bốn mươi tám điều giới khinh, đối-thú sám-hối, thời tội đặng tiêu-diệt, không phải như tội thất-nghịch.
Vị Pháp-Sư giáo-giới ở trong những pháp này phải hiểu rõ. Nếu không hiểu Kinh Luật Đại-thừa, những giới khinh, giới trọng, hành tướng phải, chẳng phải, không hiểu đệ-nhất Nghĩa-đế, tập chủng-tánh, trưởng-dưỡng tánh, tánh chủng-tánh, bất-khả hoại-tánh, đạo-chủng-tánh, chánh-pháp-tánh. Những quán-hạnh đa, thiểu, xuất, nhập của trong các pháp đó, cùng mười chi thiền, tất cả pháp hạnh, mỗi mỗi đều không thông hiểu. Phật-tử vì tài lợi, vì danh tiếng, cầu quấy, cầu nhiều, tham đệ tử đông lên giả tuồng là mình hiểu biết tất cả Kinh Luật để được cúng-dường đó là tự dối mình mà cũng khi-dối người khác. Nếu cố làm Giáo-Sư truyền giới cho người, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

42.- Giới vì người ác giảng giới :

Nếu Phật-Tử, không được vì tài lợi mà đem đại giới của chư Phật đây, nói với người chưa thọ giới Bồ-Tát, hoặc với hàng ngoại-đạo, những người tà kiến ... trừ Quốc-Vương, ngoài ra không được nói với tất cả hạng người ấy. Những hạng người ấy chẳng thọ giới của Phật, gọi là súc-sanh, đời đời sanh ra không gặp được Tam-Bảo, như cây đá, không có tâm-thức, gọi là ngoại-đạo, bọn tà-kiến, nào khác cây cối. Với những hạng người tà ác ấy, nếu Phật-Tử giảng nói giới-pháp của chư Phật, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

43.- Giới cố mống tâm phạm giới :

Nếu Phật-Tử, do đức tinxuất gia, thọ chánh-giới của Phật, lại cố mống tâm hủy phạm giới-pháp, thời không được thọ lãnh đồ cúng dường của tất cả đàn-việt, cũng không được đi trên đất của Quốc-dân, không được uống nước của Quốc-dân. Năm nghìn Đại-Quỷ luôn đứng án trước mặt người đó mà gọi là “ Gã bợm giặc ”.
Nếu khi đi vào trong phòng nhà thành ấp, các Quỷ thường theo chà quét dấu chân của người ấy. Tất cả người đời đều mắng người ấy là kẻ giặc trong Phật-Pháp. Hết thảy chúng-sanh đều không muốn nhìn ngó người ấy. Người phạm giới, khác nào loài súc-sanh, cây cỏ. Nếu cố phá-hủy giới-pháp của Phật, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

44.- Giới không cúng-dường Kinh-Luật :

Nếu Phật-Tử, phải thường nhất-tâm thọ-trì đọc tụng Kinh Luật Đại-thừa, dùng giấy, vải, hàng, lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, để biên chép Kinh Luật, dùng vàng bạc làm hộp, rương, đựng những quyển Kinh Luật.
Nếu không y theo Pháp mà cúng-dường Kinh Luật, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.

45.- Giới không giáo hóa chúng-sanh :

Nếu Phật-Tử, nên có lòng đại-bi, khi vào trong tất cả nhà cửa thành ấp, thấy những loài chúng-sanh, phải xướng lên rằng : “ Các ngươi đều nên thọ Tam-Quy và Thập-Giới ”. Nếu gặp trâu, bò, chó, ngựa, heo, dê, v.v.. nên tâm nghĩ miệng nói : “ Các ngươi là súc sanh phát Bồ-Đề-Tâm ”. Khi Phật-tử đi đến núi, rừng, sông, nội cùng tất cả chỗ, đều làm cho hết thẩy chúng-sanh phát Bồ-Đề-Tâm.
Nếu Phật-Tử không phát-tâm giáo hóa chúng-sanh, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

46.- Giới thuyết-Pháp không đúng Pháp :

Nếu Phật-Tử, thường nên có lòng đại-bi phát tâm giáo hóa. Lúc vào nhà đàn-việt sang giàu, cùng trong tất cả chúng hội, không được đứng thuyết-pháp cho hàng bạch-y. Phải ngồi trên tòa cao trước chúng bạch-y.
Vị Tỳ-Kheo Pháp-Sư không được đứng dưới đất thuyết-pháp cho tứ-chúng. Khi thuyết-pháp vị Pháp-Sư ngồi tòa cao, dùng hương hoa cúng dường, còn tứ chúng, hàng thính-giả thời ngồi dưới. Đối với Pháp-Sư phải như là hiếu-thuận cha mẹ, kính-thuận Sư-trưởng như Bà-La-Môn thờ lửa. Nếu Phật-Tử thuyết-pháp mà không đúng như pháp thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

47.- Giới chế hạn phi pháp :

Nếu Phật-Tử, đều đã có lòng tin thọ giới của Phật, hoặc Quốc-Vương, Hoàng-tử, các Quan, bốn bộ đệ-tử tự ỷ thế lực cao-quý, phá diệt giới-luật Phật-Pháp, lập ra điều-luật chế, hạn chế bốn bộ đệ-tử của Phật, không cho xuất-gia hành-đạo, cũng không cho tạo lập hình tượng Phật và Bồ-Tát, cùng Tháp và Kinh Luật. Lại đặt ra chức Quan đổng-lý hạn-chế tứ-chúng, và lập bộ sổ ghi số Tăng Tỳ-Kheo Bồ-Tát đứng dưới đất còn Bạch-y ngồi tòa cao, làm nhiều việc phi-pháp như binh-nô thờ chủ. Hàng Bồ-Tát này chính nên được mọi người cúng-dường, mà trở lại bắt làm tay sai của các Quan chức, thế là phi-pháp phi-luật.
Nếu Quốc-vương và các Quan có lòng tốt thọ-giới của Phật, chớ làm những tội phá Tam-Bảo ấy. Nếu cố làm, thời phạm “ Khinh cấu tội ”.

48.- Giới phá diệt Phật-Pháp :

Nếu Phật-Tử, do lòng tốt mà xuất-gia, lại vì danh tiếng cùng tài lợi, giảng thuyết giới của Phật cho Quốc-Vương và các Quan, làm những sự gông trói các Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, người thọ giới Bồ-Tát như cách của ngục-tù và binh-nô. Như trùng trong thân Sư-tử tự ăn thịt Sư-tử, chớ chẳng phải trùng ở ngoài đến ăn. Cũng thế, các Phật-Tử tự hủy phá Phật-Pháp, không phải ngoại-đạo hay Thiên-Ma phá được.
Người đã thọ giới của Phật, nên hộ trì giới-luật của Phật như ấp yêu con một, như kính thờ cha mẹ, không được hủy phá.
Người Phật-Tử khi nghe ngoại-đạo, người ác dùng lời xấu hủy-báng giới-pháp của Phật, thời đau đớn không khác nào cả ba trăm cây giáo nhọn đâm vào tim mình, hay cả nghìn lưỡi dao, cả vạn cây gậy đánh bổ vào thân mình. Thà tự cam vào ở địa-ngục đến trăm kiếp, chớ không muốn nghe lời hủy-báng giới pháp của Phật do bọn người ác. Huống là không lòng hiếu-thuận, tự mình hủy-phá giới-pháp của Phật, hay làm nhân duyên bảo người khác hủy-phá. Nếu cố phá giới-pháp, Phật-Tử này phạm “ Khinh cấu tội ”.
Chín giới như vậy, cầu nên học, hết lòng kính-trọng phụng-trì.

VII.- TỔNG-KẾT :

Đức Phật dạy : Các Phật-Tử ! Đó là bốn mươi tám điều giới khinh, các người phải thọ-trì. Chư Bồ-Tát thủa đời quá-khứ đã tụng, chư Bồ-Tát thuở đời vị-lai sẽ tụng, chư Bồ-Tát hiện-tại đương tụng.
Các Phật-Tử lóng nghe ! Mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh đây, chư Phật trong ba thủa đã tụng, sẽ tụng và hiện đương tụng. Nay ta cũng tụng như vậy.


VIII.- LƯU-THÔNG :

Đức Phật phán tiếp : Tất cả Đại-Chúng, Quốc-Vương, Vương-Tử, các Quan, Tỳ-Kheo, Tỳ-Kheo-Ni, Tín-Nam, Tín-Nữ thảy, những người thọ-trì giới Bồ-Tát, nên phải thọ-trì đọc tụng giảng-thuyết biên chép quyển giới-pháp Phật-Tánh thường-trụ để lưu-thông mãi-mãi. Tất cả chúng-sanh xoay vần truyền dạy lẫn nhau không dứt. Do đây, đặng gặp chư Phật, được chư Phật trao tay. Đời đời khỏi hẳn ba ác đạo và tám chỗ nạn. Thường được thác-sanh trong loài người, hay cõi Trời.
Nay Ta ở dưới cội Bồ-Đề nầy, lược-giảng giới-pháp của chư Phật. Tất cả đại-chúng phải nhất-tâm học Ba-La-Đề-Mộc-Xoa, hoan hỷ phụng hành.
Như phần “ Khuyến Học ” trong phẩm “ Vô-Tướng Thiên-Vương ” mỗi mỗi đều giảng rõ.
Lúc đó chư vị Học-sĩ trong cõi tam-thiên ngồi lóng nghe đức Phật tụng giới, hết lòng kính-trọng, hoan-hỷ thọ-trì. Đức Thích-Ca Mâu-Ni giảng xong về mười vô-tận giới pháp trong phẩm “ Tâm-Địa Pháp-Môn ” của đức Phật Lô-Xá-Na đã giảng nơi thế-giới Liên-Hoa Đài-Tạng lúc trước, nghìn trăm ức đức Thích-Ca cũng đồng giảng như vậy. Từ cung Đại-Tự-Tại Thiên-Vương đến dưới cây Bồ-Đề nầy, thuyết-pháp cả mười chỗ, vì tất cả Bồ-Tát và vô-số đại-chúng thọ-trì đọc tụng giải-thuyết pháp-nghĩa cũng như vậy.
Nghì trăm ức thế-giới, Liên-Hoa Đài-Tạng thế-giới, vi-trần thế-giới, chư Phật cũng giảng-thuyết như vậy. Tất cả Phật-Tâm-Tạng, Địa-Tạng, Giới-Tạng, Vô-Lượng Hạnh-Nguyện-Tạng, Nhân-Quả Phật-Tánh Thường-Trụ-Tạng. Tất cả chư Phật giảng thuyết vô-lượng pháp-tạng như thế đã xong.
Hết thảy chúng-sanh trong nghìn trăm ức thế-giới đều thọ trì hoan-hỷ phụng-hành.
Còn về phần giảng rộng những hành-tướng của tâm-địa thời như trong phẩm “ Phật-Hoa Quang-Vương Thất-Hạnh ” có nói.

IX.- KỆ KHEN TẶNG GIỚI PHÁP :

Người trí nhiều Định Huệ
Thọ trì được pháp này
Lúc còn chưa thành Phật
Được hưởng năm điều lợi :
Một là Thập-Phương Phật
Thương tưởng hộ-trì luôn
Hai là lúc lâm chung
Chánh niệm lòng vui vẻ
Ba là sanh chỗ nào
Cùng Bồ-Tát làm bạn
Bốn là những công-đức
Giới-độ đều thành tựu
Năm, đời này, đời sau
Đủû giới và phước-huệ
Đây là các Phật-Tử
Người trí khéo nghĩ lường
Kẻ trước tướng chấp-ngã ( Phàm phu )
Không thể được pháp nầy
Người trầm không trệ-tịch ( Tiểu-Thừa )
Cũng không gieo giống được.
Muốn nẩy mầm Bồ-Đề
Trí-Huệ soi thế-gian
Phải nên quan sát kỹ
Thật tướng của các pháp :
Không sanh cũng không diệt
Không thường lại không đoạn
Chẳng đồng cũng chẳng khác
Chẳng đến cũng chẳng đi.
Trong thể nhất-tâm ấy
Siêng tu tập trang-nghiêm,
Công-hạnh của Bồ-Tát
Phải tuần tự học tập.
Nơi học, nơi “ Vô học ”
Chớ mống tưởng phân biệt
Đấy là “ Đệ Nhất-Đạo ”,
Cũng gọi pháp Đại-Thừa
Hết thảy lỗi hý-luận
Đều từ đây dứt sạch
Vô-thượng trí của Phật
Đều do đây mà thành.
Vì thế nên Phật-Tử
Phải phát-tâm dõng-mãnh
Nghiêm trì giới của Phật
Tròn sạch như Minh-Châu.
Chư Bồ-Tát quá-khứ
Đã từng học giới này,
Hàng vị-lai sẽ học,
Người hiện-tại đương-học.
Đây là đường Phật đi
Là chỗ Phật khen ngợi.
Ta đã giảng giới xong
Phước-đức nhiều vô-lượng,
Hồi-hướng cho chúng-sanh
Đồng đến “ Nhất-Thiết-Trí ”
Nguyện ai nghe pháp này
Đều được thành Phật đạo

X.- PHẦN HỒI-HƯỚNG :

Trên Liên-Hoa-Tạng
Đức Xá-Na Tôn
Lược giảng Tâm-Địa Pháp-môn này
Truyền lại chư Thế-Tôn
Khinh, Trọng phân rành
Tất cả được nhờ ân
Nam-Mô Phạm-Võng Giáo-Chủ Lô-Xá-Na Phật Biến Pháp-giới Tam-Bảo ( 3 lần )

KIẾT KINH KỆ

Trời, A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
Ai đến nghe pháp phải hết lòng
Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
Mọi người siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu thính-giả đến chỗ này
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
Xót thương người đời luôn cứu-hộ
Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
Pháp-trí vô-biên lợi quần-sanh
Tất cả tội-nghiệp đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
Luôn gìn định-phục mặc che thân
Hoa mầu trí-giác khắp trang-nghiêm
Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.
Nam-Mô Hộ-Pháp Chư-Tôn Bồ-Tát Ma-Ha-Tát ( 3 lần )

( Người tụng giới đứng dậy chắp tay nói : Kính bạch đại-chúng, nay tôi là ... vưng lịnh tụng giới, vì ba nghiệp biếng trễ, nếu có điều chi sai sót, xin đại-chúng bố-thí hoan-hỷ ).


KINH TÂM-YẾU BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA

Bồ-tát Quán-Tự-Tại thực hành sâu xa pháp Bát-Nhã ba-la-mật-đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, độ thoát hết thảy khổ ách.
Này Xá-Lợi-Tử ! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng đều như thế.
Này Xá-Lợi-Tử ! Tướng Không của mọi pháp không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.
Cho nên trong Chân-không không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức. Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn-thức giới cho đến không có ý-thức giới. Không có vô-minh cũng không có hết vô-minh cho đến không có già chết cũng không có hết già chết. Không có khổ, tập, diệt, đạo. Không có trí-tuệ cũng không có chứng đắc. Bởi vì vô sở đắc.
Bồ-tát y Bát-Nhã ba-la-mật-đa nên tâm không quản ngại. Vì không quản ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu-cánh Niết-Bàn. Ba đời chư Phật y Bát-Nhã ba-la-mật-đa nên được đạo quả Vô-thượng chánh-đẳng chánh-giác.
Cho nên biết Bát-Nhã ba-la-mật-đa là đại-thần chú, là đại-minh chú, là vô-thượng chú, vô-đẳng-đẳng chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư.
Vì vậy nói chú Bát-Nhã ba-la-mật-đa :
Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, sa bà ha ! ( 3 lần )

( Nếu có thì giờ thì niệm Phật hồi-hướng theo nghi Tinh-Độ phổ-thông, bằng không có thì giờ dư thời theo nghi lễ dưới đây ) :


HỒI HƯỚNG

Tụng giới công đức thù thắng hạnh
Vô biên thắng phước con hồi hướng
Khắp nguyện trầm nịch bao chúng-sanh
Sớm về cõi Phật Quang Vô Lượng
Nguyện tiêu ba chướng trừ phiền não
Nguyện được trí tuệ chơn minh liễu
Khắp nguyện tội chướng đều tiêu trừ
Đời đời thường hành Bồ-Tát Hạnh
Nguyện sanh Tây Phương cõi Tịnh Độ
Chín phẩm Hoa sen làm cha mẹ
Hoa nở thấy Phật chứng Vô sanh
Bất Thoái Bồ-Tát làm bạn lữ


Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng-sanh
Đều trọn thành Phật đạo.

Tự quy-y Phật, xin nguyện chúng-sanh hiểu rõ đạo lớn, phát tâm Bồ-đề. ( 1 lạy )

Tự quy-y Pháp, xin nguyện chúng-sanh vào sâu kinh tạng, trí-tuệ như biển. ( 1 lạy )

Tự quy-y Tăng, xin nguyện chúng-sanh thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. ( 1 lạy )

Bài Phát Nguyện

Nguyện cầu Sư Tăng cha mẹ đời này đời trước, thiện ác tri thức, đàn việt lập chùa, Mười phương tín thí, bà con quyến thuộc, hoặc còn hoặc mất, sáu đạo chúng sanh, hoặc oán hoặc thân.
Nguyện giải tất cả bao oan khiên, tiêu tất cả bao tội nghiệp, đồng chứng Đại Bồ-Đề, đồng sanh cõi An-Lạc.

Nam-Mô Tây-Phương An-Lạc Thế-Giới Đại-Từ Đại-Bi Tiếp-Dẫn Đạo-Sư A-Di-Đà Phật. (3 lần)

Nam-Mô Tây-Thiên Đông-Độ Việt-Nam Lịch-Đại Nhất Thiết Chư Vị Tổ Sư. (3 lần)

KỆ ĐỊA-TẠNG

Từ bi quảng đại diệu khó lường,
Cứu khổ đường mê Địa-Tạng Vương,
Tích trượng rung thời khai Địa Ngục,
Thần châu trổ chiếu hết đau thương,
Bi quang cứu tế U-Minh Giới,
Pháp lực dương buồm Bát-Nhã thuyền,
Tiếp dẫn tinh thần cao đuốc tuệ,
Đường đường khắp phóng ngọc hào quang.

Nam-Mô Đại Hoằng Thệ Nguyện Địa Ngục chưa không thề chẳng thành Phật, chúng-sanh độ tận mới chứng Bồ-Đề, Đại Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh, Đại Từ Bổn Tôn Địa-Tạng Vương Bồ-Tát. (3 lần)

KỆ HỘ PHÁP

Trời A-Tu-La, Dạ-Xoa thảy
Ai đến nghe pháp nên chí tâm
Ủng-hộ Phật-Pháp cho thường còn
Mọi người siêng tu lời Phật dạy
Bao nhiêu thính-giả đến chỗ nầy
Hoặc ở cõi đất hoặc trên không
Nương theo chánh-pháp ngày đêm tu
Xót thương người đời luôn cứu-hộ
Cầu cho Thế-giới thường an-ổn
Pháp-trí vô biên lợi quần-sanh
Tất cả tội nghiệp đều tiêu trừ
Dứt hẳn quả khổ vào viên-tịch
Thường dùng giới-hương thoa vóc sáng
Luôn gìn định-phục mặc che thân
Hoa mầu trí-giác khắp trang nghiêm
Khắp xứ, khắp nơi thường an-lạc.
Nam-mô Tồi Tà Phụ Chánh Hộ-Pháp Chư Tôn Bồ-Tát Ma-ha-tát. (3 lần)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12398)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương. Khi trái tim nghĩ thì chắc cũng không nghĩ như khối óc.
(Xem: 13928)
Cũng như những kinh luận liễu nghĩa khác, nội dung của kinh không ngoài việc chỉ cho mọi người thấy được TÁNH PHẬT của chính mình.
(Xem: 10710)
Kinh Lăng Già gắn liền với Thiền là một sự kiện đáng ghi nhớ trong lịch sử Thiền tông, khi Sơ tổ Đạt Ma đem bộ kinh bốn quyển này phó chúc cho Nhị tổ Huệ Khả
(Xem: 10391)
Nhân khi Phật đi thuyết pháp ở Hải-Long-Vương cung về qua đấy, quỉ vương đi đón Phật và mời Phật vào trong thành Lăng-Ca xin thuyết pháp.
(Xem: 11046)
Vàng không có tự tánh, nhờ có điều kiện thợ khéo mà có tướng sư tử sinh khởi. Sự sinh khởi ấy sở dĩ có được là do nhân duyên, cho nên nó là duyên khởi.
(Xem: 11844)
Kính lạy bậc Giác ngộ pháp thật Lìa các phân biệt cùng hý luận Muốn khiến thế gian rời bùn lầy Trong không ngôn thuyết, hành ngôn thuyết.
(Xem: 13022)
Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 13499)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33476)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11232)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12771)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 12927)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11507)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17742)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11292)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11705)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11389)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 18830)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12442)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11190)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13045)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15589)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11708)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11588)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12574)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12513)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 13808)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 12857)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12800)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13168)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
(Xem: 12610)
Phật dạy: Người đời có sáu điều ác tự lừa gạt và tự gây tổn hại: Mắt bị hình sắc lừa gạt, tai bị âm thanh lừa gạt , mũi bị mùi thơm lừa gạt, ý bị tư tưởng tà vạy lừa gạt.
(Xem: 12581)
Do lìa chấp, nên gồm thâu tất cả pháp, trụ nơi tri kiến bình đẳng, tức tri kiến chân thật.
(Xem: 11644)
Tâm bình đẳng như vắng lặng thì tâm ấy vui vẻ, nhu nhuyến tự nó gắn liền với lời dạy của Phật.
(Xem: 11635)
Trí tuệ kia không chỗ nào không khắp tỏ ngộ, là chỗ coi trọng của tất cả, bởi thế mà không cho đó là sự nhọc nhằn, khổ sở.
(Xem: 12196)
Kinh chỉ dạy cho ta đường lối phá vỡ và siêu việt những ý niệm ràng buộc ta trong vô minh, sanh tử và khổ đau,
(Xem: 12221)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo.
(Xem: 19644)
Đặc điểm kinh này nói về thiên và thần là giữa họ với nhân loại có sự tương quan. Ấy là nhân loại sống theo chánh pháp thì họ được nhờ và họ hộ vệ.
(Xem: 11857)
Bài kinh ngắn này được trích từ một trong những tuyển tập kinh xưa cổ nhất của Đại thừa Phật giáo, kinh Đại Bảo Tích (Ratnakuta), nói về ý nghĩa tánh Không.
(Xem: 11877)
Đạo lý căn bản trong Phật-Học, nếu không tín giải đạo lý luân hồi nầy, ắt có thể gặp nhiều chướng ngại khó hiểu ...
(Xem: 16696)
Giải thâm mậtbộ kinh được đại luận Du dà, các cuốn 75-78, trích dẫn toàn văn, trừ phẩm một (Chính 30/713-736).
(Xem: 12548)
Bồ Tát khi tu pháp Bố-thí, không nên trụ chấp các tướng; nghĩa là không nên trụ chấp tướng sáu trần...
(Xem: 14905)
Chúng sanh căn cơ, tâm bịnh, sở thích vô cùng. Giáo môn của Phật, Bồ Tát cũng chia ra vô lượng.
(Xem: 15959)
Cuối lạy đấng Tam Giới Tôn, quy mạng cùng mười phương Phật, con nay phát nguyện rộng, thọ trì Kinh Di Đà.
(Xem: 12741)
Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu học theo pháp hồi hướng này thì nên biết rằng người ấy chắc chắn đạt được Vô sanh Pháp nhẫn, có thể độ tất cả chúng sanh chưa được độ, đem lại cho vô lượng chúng sanh sự an lạc.
(Xem: 12108)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11761)
Kinh Phật Thuyết Đại Bát Nê Hoàn trong bộ Niết Bàn là một bộ kinh tiêu biểu của Phật giáo Bắc truyền do Đại sư Pháp Hiển (380-418/423), thời Đông Tấn dịch.
(Xem: 11799)
Trong các pháp ấy, không có chứng đắc, không pháp sở-dụng, không có bồ-đề. Thông đạt như thế, mới được gọi là chứng đắc đạo-quả vô thượng chính-đẳng chính-giác.
(Xem: 13019)
Pháp-Ấn này là cửa ngõ của ba pháp giải thoát, là căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là nơi chư Phật đạt đến.
(Xem: 16391)
Phật bảo các vị tỳ kheo rằng ở trong thế gian có ba pháp không đáng mến, không thông suốt, không đáng nghĩ đến, không vừa ý. Ba pháp đó là gì?
(Xem: 12363)
Đây là những điều mà tôi được nghe hồi Phật còn cư trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ-đà, gần thành Xá Vệ.
(Xem: 11702)
Tạo hình tượng Phật hoặc hình tượng Bồ Tát, là việc làm có một ý nghĩa cao quý và gây một cái nhơn công đức, phước đức lớn lao.
(Xem: 19701)
Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, Ngài thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã) nên không còn các khổ.
(Xem: 11042)
Quốc độ của đức Phật đó đẹp đẽ thanh tịnh, ngang dọc bằng thẳng trăm ngàn du- thiện-na, đất bằng vàng cõi Thiệm Bộ.
(Xem: 11151)
Phật nói hết thảy chúng sinh, ở trong bể khổ, vì nhân nghĩ càn, gây duyên lăn-lộn …
(Xem: 10292)
Nếu có chúng sanh nghe được Vô Lượng Thọ Trí Quyết Định Vương Như Lai 108 Danh Hiệu tức được thọ mạng dài lâu.
(Xem: 10996)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta.
(Xem: 10863)
Người có trí gấp làm việc thiện, tránh ác gian như tránh vực sâu. Việc lành, lần lữa, không mau, tâm tà dành chỗ, khổ đau tới liền.
(Xem: 9934)
Thế nào là Tỳ-khưu giới hạnh cụ túc? Ở đây, Tỳ-khưu từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót...
(Xem: 11636)
Các pháp, tư tác dẫn đầu, tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên, nói, làm lành tốt, thiện hiền, như hình dọi bóng, vui liền theo sau.
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant