Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng

07 Tháng Ba 201507:43(Xem: 11734)
Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi Hướng

PHẬT THUYẾT KINH THẬM THÂM ĐẠI HỒI HƯỚNG


Việt dịch:
Thích Nữ Thuần Hạnh


Phật Thuyết Kinh Thậm Thâm Đại Hồi HướngTôi nghe như vầy ! Một thời đức Phật cùng với tám ngàn chúng đại Tỳ kheo trú ở vườn Cấp Cô Độc, Kỳ Thọ, nước Xá Vệ. Bấy giờ, Thế Tônđại chúng xung quanh trước sau mà thuyết pháp. Trong hội chúng đó có một vị Bồ tát, hiệu là Minh Thiên, rời chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên phải, gối phải sát đất, chắp tay cung kính bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Con có điều muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn, vì con phân biệt giảng thuyết.

Phật dạy Đại Bồ tát Minh Thiên :

- Thiện nam tử ! Muốn hỏi điều gì cứ hỏi, chớ đừng phân vân. Như Lai tùy theo lời hỏi mà giải đáp.

Bồ tát Minh Thiên liền bạch Phật :

-Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?

Phật dạy Đại Bồ tát Minh Thiên :

- Lành thay ! Lành thay ! Minh Thiên ! Có thể hỏi Như Lai nghĩa này. Thầy đã từng ở trong thời quá khứ, chỗ vô lượng chư Phật gieo trồng công đức cúng dường chư Phật, thân cận thiện tri thức, có thể làm cho chúng sanh được phước báo an lạc, nên mới hỏi nghĩa sâu xa này. Lắng nghe ! Lắng nghe, khéo suy nghĩ !

Bồ tát Minh Thiên bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Con xin thọ giáo.

Phật dạy Minh Thiên :

- Chư Đại Bồ tát, ở chỗ chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai, tu thân hành từ bi, tu khẩu hành từ bi, tu tâm hành từ bi, chuyên tâm niệm Phật, hành trì công đức. Lại nữa Minh Thiên ! Đại Bồ tát phải nên đến điện thờ Thế Tôn Như Lai lễ bái cúng dường, gối phải sát đất chắp tay nhiễu quanh bên phải, rải hoa, đốt hương, treo cờ đèn, phan lọng, đủ các loại âm nhạc cung kính tôn trọng. Dùng các loại âm thanh hòa nhã ca ngợi nghĩa cú sâu xa, khen ngợi công đức Phật, hoan hỷ tán thán.

Phật dạy Minh Thiên :

- Vì sao Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, hiện tại, vị lai tu tập thân hành từ, tu khẩu hành từ, tu tâm hành từ, nhớ nghĩ công đức Phật? Thiện nam tử ! Đại Bồ tát nên nhớ nghĩ Như Lai là bậc kiên cố, bậc Vô Thượng, bậc Tối Thắng, là chúa sư tử dõng mãnh vô tối, tự độ độ tha tự an, an cho người, tự diệt, diệt cho người, thuyết pháp chơn đế, chúng sanh an lập, tâm không dối trá, đầy đủ tịnh giới, sức lực vô úy, biện tài, vĩnh viễn trừ các tập chướng. Tự tại đối với pháp, bình đẳng với mọi người. Chuyên tâm nhớ nghĩ công đức Phật như vậy rồi, gối phải sát đất, rải hoa, đốt hương, treo cờ đèn, phan lọng, trổi âm nhạc cúng dường. Đây là Bồ tát tu tập thân hành từ.

Dùng âm thanh hòa nhã ca ngợi về cú nghĩa sâu xa thán tán công đức Như Lai vô lượng. Đây là Bồ tát tu tập khẩu hành từ. Nhơn nơi thiện căn của thân miệng nhớ nghĩ công đức Phật chí thành cung kính. Đây là tu tập tâm hành từ. Minh Thiên ! Đây là Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu tập thân khẩu ý từ, thực hành chánh niệm.

Phật lại dạy Minh Thiên :

- Lại nữa, Đại Bồ tát ở chỗ các chúng sanh đời quá khứ, hiện tại, vị lai cũng nên tu tập thân hành từ, tu tập khẩu hành từ, tu ý hành từ, nhớ nghĩ các chúng sanh. Minh Thiên ! Vì các Đại Bồ tát ở chỗ chúng sanh trong ba đời tu tập thân, khẩu, ý hành từ, nhớ nghĩ chúng sanh. Như vậy, Minh Thiên ! Đại Bồ tát không sát hạt chúng sanh, không trộm cướp tài sản người khác, không tà dâm, không vọng ngữ, không ỷ ngữ, không lưỡng thiệt, không ác khẩu, không tham dục, không sân nhuế, không tà kiến.

Vì sao Bồ tát không sát hại chúng sanh? Đối với tất cả chúng sanh phải từ bi thương xót, nhớ nghĩ, tàm quí thương xót, vĩnh viễn xả bỏ dao gậy, không trộm cướp của người. Nếu ở làng xóm, hoặc chỗ vắng, có vật của người bỏ rơi, không cho không được lấy. Không tà dâm là nếu người nữ có chủ hay có cha mẹ, anh em, thân tộc bảo hộ, cho đến được cô ta tặng một cành hoa cũng không được khởi dục tưởng. Không vọng ngữ là nếu ở nơi làng xóm, hoặc chỗ vua mà làm chứng giúp người, nên thành thật, giữ lời, thà chết không nói dối, không nói hai lưỡi là thường ở chỗ người này người kia khởi tâm tưởng hòa hợp. Nghe được từ chỗ này không đến nói đằng kia. Nghe từ đằng kia không đến nói chỗ này. Không ác khẩulời nói nhẹ nhàng, khuyên lơn thưa hỏi họ trước. Trọn đời không dùng lời nói đau đớn, ác nghiệt, thô bạo nói với chúng sanh. Không ỷ ngữ là khi nói phải nói lời chơn thật, biết nghĩa mới nói. Vì lợi ích cho người mới nói. Tâm miệng không sai khác. Không tham trước là đối với tài vật của người không khởi lòng tưởng tham muốn, thấy ai đến lấy tâm không tham tiếc. Không sân nhuế là đối với tất cả chúng sanh, diệt trừ các sự sân hận khởi tâm từ bi thương xót, tâm lợi ích, tâm an lạc cho người. Tùy theo tất cả chúng sanh mà khéo nhiếp thọ. Không tà kiến là có cho có giúp có thuyết, có cha mẹ, có đời nay đời sau, có khổ vui, hành động có quả báothế gian. Có A la hán, tự biết thân mình sẽ chứng. Ta sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc cần làm đã làm xong, không thọ thân sau.

Minh Thiên nên biết ! Vị kia không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâmBồ tát tu hành thân từ. Không vọng ngữ, không hai lưỡi, không ác khẩu, không ỷ ngữBồ tát tu hành khẩu từ. Không tham, không sân, không tà kiếnBồ tát tu hành ý từ. Tu hành thân, khẩu, ý là Bồ tát nhớ nghĩ chúng sanh một cách bình đẳng.

Phật dạy Minh Thiên :

- Đại Bồ tát ở chỗ chư Phật đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Và ở chỗ tất cả chúng sanh đời quá khứ, vị lai, hiện tại tu hành thân từ, tu hành khẩu từ, tu hành ý từ. Được quả báo công đức, hồi hướng Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Minh Thiên ! Bồ tát nào hồi hướng như vậy, gọi là Bồ tát tu thiện ít mà được quả báo to lớn, tạo nhiều công đức, phước báo vô lượng.

Phật dạy Minh Thiên :

- Khi Bồ tát này thành tựu vô lượng công đức, đem công đức ấy hồi hướng trí huệ vô lượng. Lại cùng tất cả chúng sanh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề. Ba loại công đức này có ba loại hồi hướng. Những gì là ba? Là quá khứ không, đương lai không, hiện tại không. Không có người hồi hướng, không có pháp hồi hướng, không có chỗ hồi hướng. Đại Bồ tát nên làm hồi hướng này. Khi làm việc hồi hướng này, ba chỗ đều thanh tịnh. Đem công đức thanh tịnh này hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Làm việc hồi hướng này, không có phàm phu và pháp phàm phu, cũng không có tín hành, cũng không có pháp hành, không có tám hạng người, không có Tu đà hoàn hướng, Tu đà hoàn, không có Tư đà hàm hướng, Tư đà hàm, không có A na hàm hướng, A na hàm, không có A la hán hướng, A la hán, không có Bích Chi Phật hướng, Bích Chi Phật, không có Phật và người hướng Phật. Vì sao? Vì pháp tánh không duyên bất sanh bất diệt, không chỗ trú. Cho nên Đại Bồ tát dùng ba loại hồi hướng này ba loại công đức thanh tịnh hồi hướng về Vô Thượng Bồ đề cho tất cả chúng sanh. Bồ tát này hồi hướng rồi, lại nguyện : “Tôi sanh ra chỗ nào cũng thường gặp tam muội thậm thâm của chư Phật, thấy vô lượng Phật, thành tựu đa văn, trí huệ thanh tịnh. Thề không bỏ tất cả chúng sanh”. Khi thuyết như vậy, trăm ngàn trời người đều nguyện muốn vãng sanh về nước Phật A Súc.

Bấy giờ, Phật dạy tôn giả A Nan :

- Khi Ta thuyết pháp môn thậm thâm này, trăm ngàn trời người đều nguyện vãng sanh về nước Phật A Súc. A nan nên biết ! Đây, kia đều nên nguyện vãng sanh về cõi nước Diệu Lạc của Phật A Súc. Từ cõi Phật này đến cõi Phật khác cúng dường chư Phật, lắng nghe thọ trì chánh pháp, đắc Đà la ni, tu hành như điều thuyết, đều được thành tựu trí huệ bất tư nghì. Làm Phật trong nước ngũ trược đều đồng một hiệu là Cam Lồ Âm Vương Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác. Nên biết khi được thọ ký, trăm ngàn chúng sanh đều phát tâm Vô Thượng Bồ đề.

Khi ấy, Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật :

- Bạch Thế Tôn ! Theo chỗ con hiểu nghĩa Phật thuyết, nên biết đại công đức này là công đức vô lượng, là công đức vô biên.

Phật dạy :

- Kiều Thi Ca ! Pháp này hoàn toàn thanh tịnh.

- Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên gọi là kinh gì? Phụng trì thế nào?

- Kiều Thi Ca ! Kinh này gọi là Đại Hồi Hướng cũng gọi là hồi hướng pháp tánh thậm thâm. nên phụng trì như vậy.

Phật dạy Kiều Thi Ca ;

- Nếu có thiện nam, thiện nữ nào học kinh hồi hướng này, nên biết người này ắt đắc pháp Vô sanh nhẫn, có thể độ người chưa độ, trăm ngàn vô lượng chúng sanh an lạc.

Khi thuyết pháp này, chúng Tỳ kheo, thích Phạm thiên, trời, người, A tu la.v.v... nghe lời Phật thuyết đều hoan hỷ phụng hành.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34610)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33428)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43898)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57023)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47536)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39410)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38452)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52908)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36583)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32225)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40431)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43460)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31436)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46692)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36158)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28680)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29211)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31861)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28792)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33341)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29106)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60965)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39715)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26638)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29638)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37340)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40064)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26823)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42627)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37266)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28272)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28880)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26387)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27153)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26174)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34597)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27791)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30450)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33250)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28545)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30052)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25473)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21826)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51267)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26702)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28600)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27686)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24336)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27448)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31904)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30169)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27675)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35404)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27425)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29988)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31736)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22989)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24166)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23006)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
(Xem: 26635)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant