Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm thứ năm: Giới Ba La Mật

30 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 11881)
Phẩm thứ năm: Giới Ba La Mật


PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN
Thích Nguyên Ngôn dịch

Phẩm thứ năm Giới Ba La Mật

Luận nói: Hàng Bồ Tát phải tu hành (trì) Giới hạnh như thế nào? Và Trì Giới cách nào để làm lợi ích cho mình và cho người? - Và cả hai đều lợi ích rốt ráo?

Người tu Trì giới như vậy, tức có khả năng trang nghiêm Đạo Bồ đề. Bồ Tát vì muốn điều phục chúng sanh, khiến cho họ xa lìa khổ não, cho nên phải Tu Trì Tịnh giới. Người tu trì Tịnh giới, thì ba nghiệp thân, khẩu, ý tức phải thanh tịnh, đối với kẻ tánh bất thiện, tâm luôn luôn xa lánh, lại khéo quở trách ác hạnh, và kẻ huỷ phạm cấm giới. Đối với những lỗi nhỏ, trong lòng luôn lo sợ, với những điều như vậy được gọi là hàng Bồ Tát sơ phát tâm tu trì tịnh giới vậy.

Nguời tu Trì giới , thì phải xa lìa tất cả ác nghiệp, các lỗi lầm, thường sanh vẻ nơi thiện xứ (thiên giới), và được như vậy gọi là tự lợi. Lại biết giáo hoá chúng sanh, khiến họ không phạm vào điều ác, thì gọi là lợi tha. Do tu công đức này, hồi hướng về Bồ đề giới, giáo hoá chúng sanh khiến đồng lợi ích như mình, thì gọi đó là cả hai đều lợi (viên mãn giới).

Do nhơn tu Trì giới, mà đắc quả LI DỤC, cho đến dứt hết các lậu hoặc, thành Tối chánh giác, bấy giờ gọi đó là trang nghiêm Đạo Bồ đề.

Giới có ba loại (thành phần):

1- Thân giới

2- Khẩu giới

3- Y giới.

Người thọ trì Thân giới, vĩnh ly tất cả các hạnh sát đạo dâm, bất đoạt vật mạng, bất xâm phạm tài sản của người, cũng không xâm phạm vào ngoại sắc. Lại nữa, cũng không vi phạm SÁT, v.v... làm nhơn duyên, cho đến một phương tiện nhỏ nào. Chẳng dùng cây gậy, gạch đá làm thương tích chúng sanh. Nếu vật thuộc của người, là của người thọ dụng, như một ngọn cỏ, lá cây, người chẳng cho thì ta chẳng nên lấy dùng. Lại nữa, cho đến việc lấy mắt nhìn lén, xem trộm sắc đẹp màu mè v.v:.. Nên giữ Tứ oai nghi cho tề chỉnh. Những điều như vậy gọi là Thân Trì giới.

Khẩu thọ trì giới thư thế nào ? Tức là đoạn trừ tất cả những lời vọng ngữ, lưỡng thiệt ác khẩu, ỷ ngữ, không khi cuốn người, không ly gián người này, lại nói lời hoà hợp với người kia, phỉ báng lỗi lầm của người, hoặc dùng văn sức ngôn từ khéo léo làm phương tiện, khiến cho tha nhân xúc mão. Trái lại lời nói ta phải chí thành, phải ôn hòa, phải trung tín đối với người. Lời nói phải là lời nói nhiêu ích cho người, khuyến hoá người tu thiện. Những điều kiện như vậy, gọi là tu Khẩu giới.

Người Trì Tâm giới phải như thế nào ? Phải dứt trừ tham sân si, tà kiến, lại thường tu tập nhu nhuyển, không tạo các tội lỗi, tin rỏ ác nghiệp sẽ thọ lành quả báo ác. Phải nỗ lực tư duy, không tạo ác nghiệp, đối với tội nhẹ, tâm luôn tưởng là điều to lớn,

nếu có lỗi lầm đều phải lo sợ, ăn năn. Đối với chúng sanh tâm không khỏi sân hận nào loạn, thấy chúng sanh khổ, phải khởi tâm thương cảm, luôn luôn biết ơn báo ơn, tâm không keo bòn, vui làm việc phúc đức, thường làm lợi ích, giáo hoá mọi người, thường tu Từ tâm. thương xót tất cả. Với những điều kiện như vậy, gọi là Tu Tâm giới.

NÓI VỀ THẬP THIỆN GIƠÍ, CÓ NĂM ĐIỀU LỢI ÍCH:

1-Thường ngăn ngừa ác hạnh.

2- Thường khởi tác thiện căn

3- Thường xa lánh phiền não

4- Thường thành tựu Tịnh Tâm

5- Thuờng tăng trưởng giới hạnh.

Nếu nguời khéo tu Giới, không buông lung phóng dật, đầy đủ chánh niệmphân biệtthiện ác .v.v... Thì phải biết rằng người đó quyết định thường tu Thập thiện nghiệp giới, và 84.000 vô lượng giới phẩm, tất cả đều nhiếp thuộc nơi Thập thiện giới vậy. Phải biết Thập thiện giới chính là tất cả giới căn bổn, đoạn các nghiệp ác nơi thân, khẩu, ý vậy. Lại có năng lực ngăn ngừa tất cả pháp bất thiện cho nên gọi là Tu Giới Hạnh vậy.

LUẬN VỀ GIỚI CÓ NĂM LOẠI: (năm ý nghĩa)

1- Gọi là Ba la đề mộc xoa giới.

2- Gọi là Định cộng giới.

3- Gọi là Vô lậu giới.

4- Gọi là Nhiếp căn giới.

5- Gọi là Vô tác giới.

- Khi Bạch Tứ Yết Ma, theo Thầy mà thọ giới, gọi đó là Giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Từ Giới căn bản tu tập Tứ thiền, quả Tứ thiền chưa được ( tức còn tu tập). Gọi đó là Định cộng giới.

Căn bản giới, tu tập Tứ thiền, đắc sơ thiền, chưa mãn Tứ thiền, gọi đó là Vô lậu giới. Nhiếp thủ chư căn, tu chánh niệm tâm, kiến văn, giác, tri, sắc, thanh, hương, vi, giải, bất sanh phóng dật, gọi đó là Nhiếp căn giới. Xả bỏ thân này cho đến thân sau chẳng tạo ác nghiệp, gọi đó là Vô tác giới.

Hàng Bồ Tát, tu Trì giới không cùng với hàng Thanh văn, Bích chi Phật-hợp hay không hợp (đây là cách so sánh) như vậy gọi Thiện trì Tịnh giới. Do Thiện trì Tịnh giới, nên hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

Tu trì Từ tâm giới. thường hay cứu độ chúng sanh, khiến cho được an lạc vậy

Tu trì Bi tâm giới, hay nhân thọ các khổ, cứu nguy nạn cho chúng sanh.

Tu trì Hỷ tâm giới, khuyến thỉnh mọi người tụ tập thiện phập, khiếm dứt trừ tâm giải đãi.

Tu trì Xả tâm giới, đối với kẻ oán người thân đều bình đẳng, khiến họ xa lìa ái nhuế vậy.

Tu trì Huệ thí giới, khéo giáo hoá điều phục chúng sanh vậy.

Tu trì Nhẫn nhục giới, tâm thường nhu nhuyễn không sân si vậy.

Tu trì Tinh tấn giới, thì thiện nghiệp mỗi ngày được tăng trưởng không thối thất vậy.

Tu trì Thiền định giới, tức là xa lìa dục lậubất thiện pháp, tăng trưởng thiền cảnh vậy.

Tu trì Trí huệ giới, tức thành tựu đa văn, và thiện căn, lại không nhàm chán chánh pháp.

Tu trì Thân cận thiện tri thức giới, ấy là làm nhơn duyên phù trợ thành tựu Đạo Vô Thượng Bồ đề vậy

Tu trì Viễn ly ác tri thức giới, thì xa lìa ba ác đạotám nạn xứ.

Hàng Bồ Tát phát tâm tu trì Tịnh giới, chẳng nương nơi cõi Dục giới chẳng gần gũi cõi Sắc giới, cũng chẳng trụ nơi cõi Vô sắc giới. Vì tu tịnh giới thanh tịnh, xả ly dục trần (tam giới), trừ sân nhuế si mê, diệt vô minh chướng. Vì tu Thanh Tịnh giới dứt đoạn thường nhị biên, mà không nghịch với lý nhơn duyên. Vì tu Thanh tịnh giới, thì không chấp trước nơi sắc, thọ, tưởng, hành, thức, vì đó là giả danh tướng. Vì tu Thanh tịnh giới nên chẳng ràng buộc nơi Nhơn duyên, chẳng khơi các kiến chấp, chẳng trụ nơi nghi hối. Vì tu Thanh tinh giới bất trụ tham sân si, nó là tam bất thiện căn. Vì tu Thanh tịnh giới nên không còn ngã mạn, kiêu mạn, tăng thượng mạn, mạn mạn, đại mạn, mà phải nhu hoà thiện thuận. Vì tu Thanh tinh giới nên đối với lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, chẳng vì tám thứ đó mà bị khuynh động. Vì tu Tịnh giới nên không nhiễm trước các pháp thế gian, hư vọng, giả danh, ma chỉ thuận theo Chân đế. Vì tu Tịnh giới nên chẳng còn phiền não ray rứt mà được tịch diệt, ly các tưởng được mọi sự an vui

Tóm lại, mà nói, người tu Tịnh giới cho đến chẳng tiếc thân mạng, quán sát lý vô thường, khởi tưởng nhàm chán, cần thực hành thiện căn, dõng mãnh tinh tấn, đó gọi là Thanh Tịnh giới vậy.

Bồ Tát Mahatát, tu hành Trì giới, lại chẳng thấy mình có tâm thanh tịnh, bởi đã xa lìa các tướng. Như vậy thì trọn đủ ý nghĩa Thi ba la mật.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12513)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10412)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12365)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11671)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28839)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12069)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13025)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11470)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12392)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17469)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53106)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35513)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21426)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10703)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19275)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12443)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26064)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13336)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14404)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16104)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16868)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17608)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13151)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12552)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11635)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11639)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14523)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20499)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19014)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19619)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18691)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12216)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12341)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13881)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15055)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15055)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14010)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15542)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11415)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17214)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14997)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20242)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14637)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13885)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11745)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15081)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13014)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22913)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14576)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11694)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13186)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16908)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18366)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11957)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11517)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15871)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18935)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18447)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant