Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký Thứ Hai

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8289)
12.02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ Ký  Thứ Hai
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XII
PHÁP HỘI BỒ TÁT TẠNG
THỨ MƯỜI HAI

Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Huyền Trang
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

02. Phảm Kim Tỳ La Thiên Thọ
Thứ Hai

(Hán bộ đầu quyển 36 )

 Ở giữa đường , đức Thế Tôn làm cho chư Trưởng Giả chứng nhập thánh quả,dùng oai thế Như Lai mà vào thành Vương Xá, bốn chúng vây quanh oai nghi nghiêm chỉnh.
 Lúc ấy trong hàng chư Thiên Thần Dạ Xoa thủ hộ thành Vương Xá có Đại thiện thần Vương hiệu là Kim Tỳ La nghĩ rằng : nay đức Như Lai hình tướng rất lạ, là bực tốI thắng trong thế gian khó được gặp , đáng được sự cúng dường của Trời ,của Người.Chúng ta hôm nay phảI mang những món cúng thượng diệu dâng lên đức Như Lai.
 Suy nghĩ xong, Kim tỳ La Vương đem thức uống ăn tốI thắng đầy đủ hương vị diệu sắc trọn vẹn dâng lên đức Phật.
 Đức Thế Tôn thương sự hiến dâng ấy nên nạp thọ.
 Lúc ấy ,sáu muôn tám ngàn Đại dược xoa của Kim Tỳ La Vương thống lãnh ở trên hư không đều sanh lòng tùy hỉ dùng âm thanh thanh viễn xường rằng : lành thay,lành thay!
 Kim Tỳ La Vương bảo chúng Dạ Xoa rằng : “ Ta đã dâng lên đức Phật những món cúng vi diệu .Các người cũng nên đem món cúng dường hiến cho chư Tỳ Kheo tăng. Do đó các ngươi sẽ được lợi ích an lạc mãi mãi”.
 Chúng Dạ Xoa tuân lờI truyền dạy của Thần Vương đem món ăn thượng vị cúng dâng cho chư Tỳ Kheo Tăng.
 Chư Tăng xót thương nhận lấy đồ cúng ấy.
 Đức Thế Tônkhất thực mà vào thành Vương Xá .Khất thực xong, đức Phật trở về chỗ cũ.
 Có vô lượng ngàn chúng Thiên ,Long, Dạ Xoa, Càn Thát bà , A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La , Ma Hầu La Già , cùng vô lượng ngàn nhơn và phi nhơn ,vô luợng câu na do tha trăm ngàn chúng sanh khác đồng tùy tùng theo sau đức Phật.
 Bấy giờ đức Như Lai về đến chỗ tối thắng rộng rãi trải tọa cụ rồi ngồi như thường ngày.
 Kim Tỳ La Vương và bộ thuộc đem những hoa trời ,hoa mạn đà la ,hoa mạn thù sa , hoa ưu bát la, hoa bát đầu ma, hoa câu vật đầu, hoa phân đà lợi, cũng đem các thứ hương bột cọi trời rải trên đức Phật để cúng dường rồi chắp tay kính lễ đức Phật.Lễ Phật xong, chư Thần Vương đứng yên trước đức Phật.
 Đức Phật biết rõ tâm niệm của Kim Tỳ La Vương và bộ thuộc nên liền mỉm cười .
 Theo pháp thường của chư Phật mỗi khi mỉm cườI thì từ diện môn phóng ra nhiều thứ ánh sáng có vô lượng màu sắc , như là màu sáng xanh vàng đỏ trắng, màu sáng hồng , sáng vàng, sáng bạc, sáng màu thủy tinh. Ánh sáng ấy chiếu khắp vô lượng vô biên tất cả thế giớI che khuất cả ánh sáng mặt trời mặt trăng, dưới chiếu thấu địa ngục làm cho chúng sanh địa ngục vui vẻ, trên chiếu suốt trời Phạm Thế. Công việc chiếu soi đã xong, các ánh sáng ấy quay trở lạI vòng quanh đức Phật bảy lần, rồi hoặc rót vào đảnh đức Phật, hoặc rót vào hai vai hai gốI đức Phật.
 Theo pháp thường của chư Phật, lúc thọ ký cho chúng sanh địa ngục thì ánh sáng rót vào dướI hai bàn chưn đức Phật, nếu thọ ký cho súc sanh thì quang minh rót vào lưng đức Phật,nếu thọ ký cho loài quỷ thì quang minh rót vào trước bụng đức Phật, nếu thọ ký cho loài ngườI thì quang minh rót vào hông bên tả đức Phật,nếu thọ ký cho loài TrờI thì quang minh rót vào hông bên hữu đức Phật,nếu thọ ký cho bực Thanh Văn thì quang minh rót vào hai gốI đức phật, nếu thọ ký cho bực Độc Giác thì quang minh rót vào hai vai đức Phật,nếu lúc thọ ký cho chư đại Bồ Tát sẽ thành Vô thượng Chánh giác thi quang minh rót vào đỉnh đầu đức Phật.
 Trưởng Lão A Nan Đà thấy đức Thế Tôn mỉm cườI phóng quang ,Ngài liền trịch y thất điều vai hữu ,gốI hữu chấm đất chắp tay lễ chưn đức Phật rồI nói kệ bạch Phật :
 “Đấng soi sáng thế gian
 Cớ gì phóng quang minh
 Đấng lợi ích thế gian
 Cớ gì hiện mỉm cườI
 Nay ai gieo giống Thánh
 Làm nhơn Phật Bồ đề
 Nay thọ ký cho ai
 Ai đáng được giảI thoát
 ĐạI Đạo Sư hùng mãnh
 Chẳng vô cớ mà cườI
 Nguyện Mâu Ni sẽ nói
 Duyên cớ phóng quang minh ».
 Đức Thế Tôn liền nói kệ đáp Ngài A Nan :
 « Kim Tỳ La tịnh tâm
 Dâng những đồ cúng dường
 Cho đấng cứu thế gian
 Nên ta khiện mỉm cườI
 Báo Thần Vương hết rồI
 Sanh lên trời Đao LợI
 Hưởng mãn phước trời ấy
 Sanh lên trờI Dạ Ma
 Rồi lại sanh Đâu Suất
 Hưởng báo vui cõi Trời
 Mãn phước sanh loài người
 Làm bực vua trí huệ
 Cai quản vua bốn châu
 Tự tại Chuyển Luân Vương
 Mãn báo nhơn vương rồi
 Sanh lên trời Phạm Thế
 Trên trời và nhơn gian
 Luôn qua lại chẳng ngớt
 Thường hưởng thọ diệu lạc
 Hai mươi câu chi kiếp
 ^Rất sau bỏ nghôi vua
 Xuất gia cầu Phật đạo
 Đủ các thiện duyên rồi
 Thành Vô thượng Bồ đề
 Ba muôn chúng Dược Xoa
 Do dâng cúng đức Phật
 Bỏ báo Dược Xoa xong
 Sanh lên trờI Đao LợI
 Sau gặp Phật Di Lặc
 Được quả A La Hán
 Đã được truyền đạo hóa
 Liền gọi cúng dường Phật
 Cả chúng Dược Xoa ấy
 Vì an trụ Bồ đề
 Do nơi căn lành ấy
 Chẳng sanh các ác đạo
 Hoặc có ngàn Dược Xoa
 Thường cúng dường chư Phật
 Cầu Vô thượng Bồ đề
 Để lợI ích chúng sanh
 Hoặc hai ngàn ba ngàn
 Cầm hương hoa vòng hoa
 Sẽ cúng dường chư Phật
 Để được Phật Bồ đề
 Hoặc có nhiều câu chi
 Sẽ cúng dường chư Phật
 Tu tự tánh thanh tịnh
 Sau chứng đạI Bồ đề
 Kim Tỳ La Thần Vương
 Đủ sức đạI thần thông
 Cũng phát nguyện rộng lớn
 Tôi sẽ thành Chánh Giác
 Từng cúng dường chư Phật
 Phát đủ những hoằng thệ
 Nay lạI cúng dường ta
 Hướng đến đạo vô thượng
 Do sức thiện căn ấy
 Bỏ rờI các ác đạo
 Sẽ gặp Phật Di Lặc
 LạI dâng nhiều lọng báu
 Dâng nhiều lọng báu rồI
 LạI dâng nhiều y báu
 Dâng nhiều y phục rồI
 Liền bỏ nhà xuất gia
 Tròn đủ năm trăm năm
 Chuyên tu hành phạm hạnh
 Cầu tốI thượng Bồ đề
 Để lợI ích chúng sanh
 Vì thành tựu nguyện ấy
 Nên tu hành lục độ
 Suốt hằng hà sa kiếp
 Thường chuyên cần chẳng nghỉ
 A Nan ông phảI biết
 Vì thị hiện mà nói
 Hạnh thù thắng của họ
 Lại thêm quá số trên
 Như đã nói ví dụ
 Số kiếp hằng hà sa
 Được thấy chư Phật kia
 Sẽ cúng dường to lớn
 Lạ thay trí thắng diệu
 Lạ thay tâm vô thượng
 Các chúng ĐạI Đạo Sư
 Danh xưng chẳng gọI được
 Sau sẽ thành Chánh giác
 Như Lai Phật Thế Tôn
 Hiệu Ngài là Y Vương
 Vang khắp mười phưong cõi
 Bảy mươi câu chi năm
 Thuyết pháp độ chúng sanh
 Đấng Lưỡng Túc Tôn ấy
 Lâu sẽ nhập tịch diệt
 Thuyết pháp hai mươi hội
 Điều phục tâm chúng sanh
 Một đại hội tối hậu
 Trọn hai trăm ức năm
 Những đại hội đã nói
 Độ vô lượng Thanh Văn
 Như số lượng Thanh Văn
 Chúng Bồ tát cũng vậy
 LợI ích chúng sanh xong
 Phật mớI nhập Niết Bàn
 Chánh pháp trụ thế gian
 TrảI qua trăm ngàn năm
 Suốt trong năm trăm kiếp
 Tỳ Kheo ấy thành Phật
 Nơi mỗI mỗI kiếp ấy
 Ngàn đức Phật xuất hiện
 Những ngườI có trí huệ
 PhảI suy gẫm pháp thủy
 PhảI phát tâm dũng mãnh
 Hành đa văn chánh lý
 PhảI tu tập đa văn
 Do đây lớn trí huệ
 Bốn pháp nghĩa căn bổn
 Tế độ các Bồ Tát
 Là thí,giớI,văn, xả
 Đường Bồ đề hiền thiện
 Vì chúng nói pháp nầy
 Thừa vô thượng tối thắng
 Khai diễn đạo Thanh Văn
 Khéo dứt các lướI nghi
 Những ai có thỉnh hỏI
 Nay ta đều hứa khả
 Đấng chiếu thế khó gặp
 Hay nói pháp thâm diệu”.
 Kim Tỳ La Vương ở trước đức Phật được nghe thọ ký hớn hở vui mừng được chưa từng có ,nghĩ rằng : nay đức Thế Tôn sẽ lên núi Linh Thứu .Tôi phảI vun trồng chút í căn lành nơi đức Phật.
 Suy nghĩ xong ,Kim Tỳ La Vương bảo bộ thuộc rằng : “ Chúng ngươi nên biết rằng đức Như Lai sẽ lên núi Linh Thứu.Chúng ngươi phài tâm dũng mãnh tùy theo khả năng của mình mà sắm sửa cúng dường”.
 Liền đó Thần Vương cùng bộ thuộc rờI thành Vương Xá thẳng đến núi Linh Thứu, toàn con đường chặng giữa đều dọn hết cỏ rác gai góc ngói gạch sỏI đá,khắp nơi sạch sẽ như mặt gương sáng.Chúng Thần lạI rướI nước thơm rồI lót thảm tốt cùng rảI hoa đẹp khắp con đường ,xông hương thơm dọv theo bên dường và dựng những tráng phan, treo những bửu cái ,trên cao giăng che vớI những lụa màu,rồI lạI trổI những âm nhạc trờI .Con đường ấy rất rộng bằng suốt một lằn tên.Khắp nơi theo hai bên đường che rợp vớI những loài hoa mọc dướI nước như các thứ sen xanh vàng đỏ trắng, xen trong hoa sen có những chim đẹp như uyên ương. Dùng lụa màu dệt bằng chỉ vàng ròng trảI lên mặt đường, trên đó lạI trảI lướI bảy báu.
 Kim Tỳ La Vương trần thiết trang nghiêm con đường đức Phật sẽ đi qua xong, liền tự biến hóa thân mình rất cao lớn, cùng các bộ thuộc hớn hở vui mừng phát những tâm thù thắng như :
 Tâm sướng thích, tâm điều thiện, tâm nhu nhuyến,tâm thanh tịnh, tâm ly cái,ntâm sung mỹ, tâm quy y Phật,tâm quy y Pháp, tâm quy y Tăng, tâm Bồ đề bất động, tâm bất thốI chuyển,tâm vô đẳng ,tâm vô đẳng đẳng, tâm siêu tam giớI, tâm đạI từ,tâm đạI bi đốI vớI tất cả chúng sanh, tâm đạI hỉ,tâm đâi xả,tâm Phật pháp khí,tâm kiên ,tâm cố,tâm bất khả hoạI,tâm bất hủ bạI, tâm rờI bỏ bực Thanh VănĐộc Giác,tâm thành lập Bồ Tát địa.
 Phát và an trụ trong những tâm nguyện ấy ,chư Thần Vương đến chỗ đức Như Lai đảnh lễ chưn đức Phật đi nhiễu ba vòng đứng qua một bên chắp tay nói kệ bạch đức Phật rằng :
 “ Tôi đã vì Thế Tôn
 Sắm đồ cúng vô thượng
 Phật là đấng tôn quý
 Diễn nói pháp vô thượng
 Thập lực đều thành tựu
 An trụ các vô úy
 Những sự lợI chúng sanh
 Như Đạo Sư đã làm
 Phật đủ băm hai tướng
 Tám mươi tùy hình hảo
 ĐờI nhờ như mặt trờI
 Chiếu sáng khắp thế gian
 Chuyển vi diệu pháp luân
 MườI hai hành tốI thắng
 Tuyên bố pháp sâu diệu
 LợI ích các chúng sanh
 Hiển thị các thần biến
 Như nghi thức của Phật
 Vì nhiều câu chi chúng
 Mà làm sự lợI ích
 Vị lai chư ĐạI Hùng
 Giúp đờI như mặt nhựt
 Tuyên dương thánh pháp ấy
 Giác ngộ thành Vô Thượng
 Làm nhà làm thuyền bè
 Làm đường làm nẻo về
 Vì các chúng sanh manh
 Bố thí cho huệ nhãn
 Năm loài các chúng sanh
 Tôi sẽ làm chỗ dựa
 GiảI thoát các sự khổ
 Như chư Phật đã lià
 Tôi làm Lưỡng Túc Tôn
 Là trờI trong các trờI
 Thiên Đế, chúng Long Thần
 A Tu La thờ kính
 Sắm sửa đồ cúng dường
 Trong đời không gì bằng
 Tôi tạo nghiệp thượng diệu
 Không có ai tương tợ
 Như Pháp Vương Thế Tôn
 Đủ ba mươi hai tướng
 Tám mươi tướng phước diệu
 ĐờI không ai sánh kịp”.
 Đức Thế TônKim Tỳ La Vương mà nói kệ rằng :
 “Các ngườI cúng dường Phật
 Làm pháp nhơn tốI thượng
 Thù thắng trong hữu tình
 Chẳng khó được Bồ đề
 Cúng dường đấng Thế Tôn
 Chiếu sáng đờI nương theo
 Bực đáng được cúng dường
 Của TrờI, Rồng và NgườI
 Ngộ Bồ đề thượng diệu
 NgồI đạo thọ tốI thắng
 Dẹp trừ các ác ma
 Vì chúng sanh thuyết pháp ».
 Lúc bấy giờ đức Như Lai ở giữa đạI chúng dùng đạI oai đức, đạI thần thông, đạI tông thế và các thứ đạI tự tạI biến hóa mà phóng đạI quang minh chấn động cả đạI địa,hoa sen lớn mưa xuống khắp hư không ,trăm ngàn na do tha câu chi nhạc trờI đồng hòa tấu.Cả đạI chúng đều được chưa từng có,thấy thần biến ấy lạI càng kíng ngưỡng đức Phật hơn.
 Đức Như Lai chưn bước trên hoa sen lớn như bánh xe theo đường đã trang nghiêm mà đến núi Linh Thứu. Đến núi rồI, đức Phật bảo Ngài A Nan rằng : “Ông vì đức Như Laisắp đặt bửu tọa thù thắng,ta sẽ ngồI trên ấy vì muốn lợI ích cho tất cả chúng sanh mà nói kinh đạI thừa Bồ Tát hạnh sở nhơn tên là Vi Diệu Cát Tường Bồ Tát Tạng.Kinh ấy có thể làm cho núi nghi ngờ của tất cả chúng sanh lở sụp.Kinh ấy có thể làm cho lướI nghi ngờ của tất cả chúng sanh đứt tuyệt.Kinh ấy có thể làm cho gốc nghi ngờ của tất cả chúng sanh chẳng mọc được.Vì kinh đạI thừa ấy lợI ích an lạc các chúng sanh, ta vì thương xót đạI chúng và hàng thiên nhơn nên mớI mở dạy”.
 Ngài A Nan y theo lờI đức Phậtsắp đặt pháp tọa.Trong đạI chúng sáu mươi tám câu chi Thiên Tử cởI thượng y mà trảI trên pháp tọa.
 Đức Phật như thường lệ ngồI lên pháp tọa ngó chư Thiên Tử mà nói kê( rằng :
 “Chư Thiên trảI y phục
 Tối thắng thượng vi diệu
 Đại Đạo Sư cứu thế
 Ngồi yên trên pháp tọa
 Đến bờ kia cáp pháp
 Như Lai lên ngồi rồi
 Đại địa động sáu cách
 Khiến chúng đều vui mừng
 Phóng quang chiếu Phật độ
 Và chói các núi cao
 Thế Tôn hiện thần thông
 Tế độ người ưa pháp
 Chư Thiên ,Long và Nhơn
 Cưu Bàn Trà, Ngạ quỷ
 Những chúng Bố Đát Na
 Thấy nhau không chứng cách
 Trăm ngàn na do tha
 Câu chi các Thiên Tử
 Thấy Phật phóng quang minh
 Rất là khó gặp gỡ
 Vua Tần Bà Ta La
 Cùng các quan vây quanh
 Đến chỗ đức Thế Tôn
 Như Lai đời nương dựa
 Phật biết Trời,Rồng,Người
 Đại chúng đều ngồi xong
 Vì Lợi ích chúng sanh
 Nhìn ngó khắp bốn phương
 Tuyên cáo ngườI có nghi
 Nên hỏI nơi Thế Tôn
 Phật dìu dắt chúng sanh
 Khéo dứt trừ lướI nghi”.
 Lúc ấy bao nhiêu chúng sanh tron cõi ĐạI Thiên đều đến hộI họp để nghe pháp.Vì nghe pháp nên họ đều dứt lặng ngoạI duyên tâm an trụ một cảnh.
 Đức Phật bảo Ngài ĐạI Mục Kiền Liên rằng : “Ông coi hôm nay có Tỳ Kheo nào ở xa chưa về dự hộI thì nên mờI về”.
 Bấy giờ Ngài ĐạI Ca Diếp đương ở phía Nam núi Tuyết.Ngài ĐạI Mục Kiền Liên đã biết nên dùng thần thông đến thưa rằng :”Hôm nay đức Như Lai ở tạI núi Linh Thứu vì đạI chúng chư Thiên,Ma Vương,Phạm Vương, Sa Môn , Bà La Môn, A Tu La mà nói diệu pháp. Đức Thế Tôn đương chờ Ngài đấy.Ngài nên mau về,chớ để chúng tôi phảI chướng ngạI sự nghe pháp”.
 Ngài ĐạI Ca Diếp bảo Ngài ĐạI Mục Kiền Liên rằng : “ Ngài về trước ,tôi sẽ đến sau”.
 Nói xong, Ngài ĐạI Ca Diếp chẳng đứng dậy,hiện thần thông lực vào thành Vương Xá dẫn đạo bốn bộ chúng cùng theo Ngài đến núi Linh Thứu đảnh lể chưn đức Phật rồI ngồI gần bên đức Phật.
 Ngài ĐạI Mục Kiền Liên dùng thần thông lực về đến chỗ đức Phật đã thấy Ngài ĐạI Ca Diếp đã ngồI ở đó rồI liền thưa rằng : “ Thưa Ngài ĐạI Ca Diếp! Tôn giả đã thành tựu đạI thần thông lực rất mau chóng,có thể chẳng cần đứng dậy rờI chỗ ngồI mà hiện thần thông biến hóa như vậy”.
 Ngài ĐạI Ca Diếp nói : “Đức Thế Tôn khen Ngài là thần thông đệ nhứt,nay tôi hiện chút pháp mọn có gì đáng kể”.

 Pháp HộI Bồ Tát Tạng
 Phẩm Kim Tỳ La Vương Thọ Ký
 Thứ Hai
 Hết
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22333)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16041)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15049)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18983)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14461)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18645)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14442)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13616)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13565)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11838)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13286)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13682)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13954)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13268)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15043)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16185)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11104)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16473)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11935)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17617)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12891)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13730)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12873)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14876)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16408)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13155)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12125)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12796)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12935)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12806)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14193)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14150)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16512)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12404)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14408)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11350)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11052)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13209)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13905)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13181)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13022)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13529)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12752)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10262)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13993)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10253)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13737)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16287)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 12005)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 13000)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11673)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12699)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10816)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11025)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10963)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11915)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12791)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11093)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12639)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11352)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant