Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 9018)
36-07-phẩm Nhị Thừa Tướng

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XXXVI
PHÁP HỘI

THIỆN TRỤ Ý THIÊN TỬ

THỨ BA MƯƠi SÁU

Hán dịch : Tùy PhápĐạt Ma Cấp Đa
Việt dịch : Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

PHẨM PHÁ NHỊ THỪA TƯỚNG
THỨ BẢY

 
Bấy Giờ Thiện Trụ Ý Thiên Tử lại hỏi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “Bạch Đại Sĩ ! Nếu lúc có người đến chỗ Ngài để cầu xuất gia, thì Ngài đáp thế nào ?Vì họ nói pháp xuất gia giải thoát thế nào ? Thọ giớibảo trì giới thế nào ?

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Nếu có người tới chỗ tôi cầu xuất gia, tôi sẽ dạy họ rằng : “Chư thiện nam tử ! Các ông chẳng nên phát tâm xuất gia. Nếu các ông chẳng phát tâm xuất gia thì tôi sẽ dạy các ông pháp chơn xuất gia. Tại sao ? Nầy Thiên Tử ! Nếu cầu xuất gia thì cầu Dục giới cũng cầu sắc giới cũng cầu vô sắc giới, lại cầu năm dục lạc thế gian và cầu các sự quả báo vị lai. Nếu thiện nam tử mà có sở cầu thì họ chẳng chứng pháp, vì chẳng chứng pháp nên họ chẳng thấy có tâm. Nầy Thiên Tử ! Nếu vô sở thủ thì họ chứng pháp, vì chứng pháp thì chẳng thấy có tâm, vì chẳng thấy có tâm thì chẳng xuất gia, vì chẳng xuất gia thì không tâm xuất gia, vì không tâm xuất gia nên họ chẳng phát, vì chẳng phát nên không có sanh, vì vô sanh nên họ tận khổ, vì tận khổ nên cứu cánh tận, vì cứu cánh tận nên họ vô tận, vì vô tận nên là bất khả tận, bất khả tận đó tức là hư không. Nầy Thiên Tử ! Tôi sẽ dạy thiện nam tử cầu xuất gia kia như vậy.

Lại nầy Thiên Tử !Nếu có người đến chỗ tôi cầu xuất gia, tôi sẽ dạy họ như vầy : Nầy thiện nam tử ! Nay ông chớ phát tâm xuất gia. Tại sao ? Vì tâm ấy vô sanh không phát được. Ông chớ làm cách lạ mà bảo thủ tâm ấy.

Nầy Thiện Tử ! Tôi lại bảo người cầu xuất gia ấy rằng : Nay nếu ông chẳng cạo bỏ râu tóc thì ông xuất gia chơn thiệt. Tại sao ? Vì như đức Phật nói tất cả các pháp không chỗ dứt trừ, những là sắc pháp chẳng đoạn cũng chẳng trừ, thọ tưởng hành thức các pháp chẳng đoạn cũng chẳng trừ.

Nầy Thiên Tử ! Nếu có người quan niệm rằng : Tôi trừ bỏ râu tóc mới là xuất gia, thì nên biết người ấy có ngã tướng, vì có ngã tướng nên chẳng thấy bình đẳng. Lại vì thấy ngã nên thấy chúng sanh, vì thấy chúng sanh nên thấy râu tóc, vì thấy râu tóc nên có ý nghĩ trừ bỏ.

Nầy Thiên Tử ! Nếu họ chẳng thấy có ngã tướng thì không thấy tha tướng, vì không tha tướng nên không ngã mạn, vì không ngã mạn nên không ngô ngã, vì không ngô ngã nên không phân biệt, vì không phân biệt nên không động dao, vì không động dao nên không hí luận, vì không hí luận nên không thủ xả, vì không thủ xả nên không có tác bất tác không có đoạn bất đoạn, không ly không hiệp không giảm không tăng không tập không tán không tu không niệm không thuyết không ngôn, như đây thì gọi là an trụ chơn thiệt”.

Thiện Trụ Ý Thiên Tử bạch rằng : “ Bạch Đại Sĩ ! Nghĩa chơn thiệt thế nào ?”

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Nói rằng thiệt ấy tức là hư không, hư không như vậy được gọi là thiệt : không khởi không tận không giảm không tăng. Vì nghĩa ấy mà hư không là thiệt, tánh không là thiệt, như như là thiệt, pháp giới là thiệt, thiệt tế là thiệt, thiệt như vậy cũng là chẳng thiệt. Tại sao ? Vì trong thiệt ấy bất khả đắc vậy nên gọi là bất thiệt.

Lại nầy Thiên Tử ! Nếu có người đến chỗ tôi cầu xuất gia, tôi sẽ dạy họ rằng : Nay nếu ông có thể chẳng thủ trước y ca sa ấy thì tôi cho rằng ông là chơn xuất gia. Tại sao ? Vì chư Phật Thế Tôn chẳng có thủ trước, phàm có chỗ thuyết pháp đều không vì thủ trước, đó là chẳng thủ sắc là thường hay vô thường, nhẫn đến chẳng thủ thọ, tưởng, hành, thức là thường hay vô thường. Chẳng thủ nhãn là thường hay vô thường , nhẫn đến chẳng thủ nhĩ, tỷ, thiệt, thân , ý là thường hay vô thường. Chẳng thủ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chẳng thủ tham dục, sân khuể, ngu si. chẳng thủ điên đảo. Cho đến tất cả pháp đều chẳng thủ, mà cũng chẳng xả chẳng hiệp chẳng ly.

Nầy Thiên Tử ! Nếu thủ trước ca sa , thì nên biết họ có kiến chấp lớn. Vì thế nên tôi nói chẳng do thủ trước ca sa mà được thanh tịnh và được giải thoát. Tại sao ? Vì chư Phật Thế Tôn, chỗ đại Bồ đề không có ca sa.

- Bạch Đại Sĩ ! Pháp gì là ca sa ?

- Nầy Thiên Tử ! Ngài hỏi pháp gì là ca sa ? Chính tham dụcca sa, sân khuểca sa, ngu sica sa, nhơn là ca sa, kiến là ca sa, , danh sắcca sa, vọng tưởngca sa, chấp trướcca sa, thủ tướngca sa,, như vậy nhẫn đến hí luận tất cả các pháp là ca sa cả . Nếu biết các pháp không có thiện bất thiện không tu không niệm thì gọi là không có ca sa. Nếu không ca sa thì vô sở hữu, nếu vô hữu thì không cấu trược, nếu không cấu trược, thì không chướng ngại, nếu không chướng ngại thì không có tác, đây gọi là suy lường. Suy lường ấy ở nơi pháp bình đẳng không tăng không giảm không có tác bất tác, đây gọi là suy lường.

Nầy Thiên Tử ! Nếu có thể ở nơi các pháp không làm tăng giảm, chẳng nên lại khởi tưởng niệm phân biệt đúng như lời đức Phật dạy thì gọi là suy lường vậy.

- Bạch Đại Sĩ ! Những gì gọi là chẳng làm tăng giảm ?

- Nầy Thiên Tử ! Quá nơi bình đẳng, quá bình đẳng rồi pháp bất khả đắc, đó là quá khứ bất khả đắc, vị lai bất khả đắc, hiện tại bất khả đắc, pháp ấy chẳng phải như như, không có tăng giảm làm, không ngô ngã làm, không tha nhơn làm, không chúng sanh làm, không thọ mạng làm, không có đoạn làm, không có thường làm, không có phân biệt ấm nhập giới làm, không có phân biệt Phật Pháp Tăng làm, cũng không có quan niệm trì giới làm, phá giới làm, phiền não làm, thanh tịnh làm, đắc quả làm, Tu Đà Hoàn làm, Tư Đà Hàm làm, A Na Hàm làm, A La Hán làm, Bích Chi Phật làm, nhẫn đến không có quan niệm là không làm, là vô tướng làm, là vô nguyện làm, là minh giải thoát làm, là ly dục làm.

Như vậy, nầy Thiên Tử ! Đây đều là vì kẻ vô văn phàm phu ấy mà tư lương phân biệt nói pháp nầy thôi, Ngài cần phải biết. Đây là người tối hạ ngu si cầu muốn đắc pháp hư vọng thủ trước. Nên đức Như Lai vì đoạn trừ sự chấp trước của họ mà diễn nói sự tư lương phân biệt tác bất tác ấy”.

Thiện Trụ Ý Thiên Tử khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “ Lành thay Đại Sĩ hay nói pháp môn thậm thâm như vậy”.

Đức Phật cũng khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : “Lành thay lành thay ! Văn Thù Sư Lợi, nay ông có thể tuyên nói như vậy”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại nói với Thiện Trụ Ý Thiên Tử

“Nầy Thiên Tử ! Nếu có người đến chỗ tôi cầu xuất gia, tôi sẽ dạy họ rằng : Nầy thiện nam tử ! Nay nếu ông chẳng thọ giới cụ túc thì gọi là chơn xuất gia. Tại sao ? Vì như đức Phật dạy : Chỉ có hai hạng thọ pháp cụ giới : một là thọ giới chánh bình đẳng, hai là thọ giới tà bất đẳng.

Trong đây gì là giới tà bất đẳng ? Nghĩa là đọa ngã kiến, đọa nhơn kiến, đọa chúng sanh kiến, đọa thọ giả kiến, đọa sĩ phu kiến, đọa đoạn kiến, đọa thường kiến, đọa tà kiến, đọa kiêu mạn, đọa tham dục, đọa sân khuể, đọa ngu si, đọa Dục giới, đọa Sắc giới, đọa Vô sắc giới, đọa thủ trước phân biệt. Nầy Thiên Tử ! Đây là lược nói đọa trong tất cả pháp bất thiện, theo kề ác tri thức vọng chấp lấy tất cả pháp, đọa chẳng hiểu biết chỗ xuất yếu giải thoát. Đây gọi là thọ giới tà bất đẳng.

Nầy Thiên Tử ! Trong đây thế nào là thọ giới chánh bình đẳng ? Không là bình đẳng , vô tướngbình đẳng, vô nguyệnbình đẳng.

Nếu có thể nhập ba môn giải thoát như vậy, giác tri như thiệt chẳng phân biệt chẳng tư niệm, nơi tất cả pháp khôngthối chuyển.Đây gọi là thọ giới chánh bình đẳng vậy.

Lại nầy Thiên Tử ! Nếu tham dục phát, nếu sân khuể phát, nếu ngu si phát, nếu ái vô minh phát,ngã kiến phát, sáu mươi hai kiến phát, ba tà hạnh phát, bốn điên đảo phát, nhẫn đến tà chín não mười nghiệp đạo bất thiện phát nên gọi là thọ chánh giới vậy. Ví như tất cả chủng tử cỏ cây rừng bụi đều y nơi đại địa mà được sanh trưởng. Đất ấy bình đẳng không có tâm niệm làm như vậy. Cũng vậy, trong Phật pháp, nếu thọ chánh giới thì thành tựu cụ túc.

Nầy Thiên Tử ! Nếu tất cả chủng tử cỏ cây y đại địa an trụ mà được tăng trưởng. Phải nên như vậy mà thọ cụ chánh giới. Tại sao ? Vì an trụ nơi giới mà đạo pháp được tăng trưởng. Lại như chủng tử tăng trưởng được gọi là thành tựu, như vậy vì an trụ nơi giới nên tất cả pháp trợ Bồ đề phần xuất sanh tăng trưởng nên gọi là thành tựu.

 
Nầy Thiên Tử ! Đây là chư Phật Thế Tôn quá khứ vị lai hiện tại, tất cả Thanh Văn thọ chánh giới vậy, đó là nhập vào ba môn giải thoát ấy chỗ mà tất cả hí luận ngữ ngôn dứt diệt.

Nầy Thiên Tử ! Phải biết nếu người có thể thọ cụ giới như vậy thì gọi là thọ chánh, chẳng phải chẳng chánh.

Nầy Thiên Tử ! Nay tôi lại ở nơi người xuất gia như vậy, thọ cụ như vậy mà dạy họ rằng : Các thiện nam tử ! Nếu nay ông có thể chẳng trì cấm giới thì là chơn thiệt trì vậy. Tại sao ? Vì tất cả pháp đều vô sở thủ nên không chỗ trì, cớ sao riêng nơi giới nầy mà có trì.

Nầy Thiên Tử ! Nếu giớI có thể trì thì là trì tam giới

Nầy Thiên Từ ! Ý Ngài thế nào, lấy gì làm giới ?

- Bach Đại Sĩ ! Nếu có thể đầy đủ ba la đề mộc xoa thì gọi là giới.

 - Nầy thiên Tử ! Thế nào gọi là ba la đề mộc xoa ?

 - Bạch Đại Sĩ ! Đó là trì thân và khẩu ý, ba nghiệp đầy đủ thì gọi là ba la đề mộc xoa vậy.

 Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, nay đây hiện tiền chỗ nào là có thân nghiệp, tạo tác, quá khứvị lai cũng không có tạo tác? Nó đều không tạo tác không tượng mạo để có thể nói được là có , là thanh huỳnh xích bạch hay là màu pha lê ư ?

- Bạch Đại Sĩ ! Đều không vậy.

 - Nầy Thiên Tử ! Nó gọi là gì và nói thế nào ?

- Bạch Đại Sĩ ! Nó gọi là vô vi thiệt không thể nói vậy.

 - Nầy Thiên Tử ! Ý Ngài thế nào, vô vi kia có thể làm hữu vi được chăng ?

 - Bạch Đại Sĩ ! Không.

- Nầy thiên Tử ! Vì nghĩa ấy nên tôi nói rằng họ chẳng trì thì gọi là chơn trì giới vậy.

Nầy thiên Tử ! Nếu nói tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, tăng thượng huệ học đó là học tế phải nên biết như vậy: vì không chỗ trì nên nói tăng thượng học giới, vì không chỗ biết nên nói tăng thượng tâm học, vì không chỗ thấy nên nói tăng thượng huệ học. Vì tâm không phân biệt chẳng ức niệm chẳng sanh khác lạ nên gọi là tối thượng tâm học, giới họchuệ học cũng vậy

Nầy Thiên Tử ! Nếu chẳng được tâm thì chẳng niệm giới, thì chẳng tu huệ. Nếu chẳng tu huệ thì không còn khởi tất cả nghi hoặc, đã không nghi hoặc thì chẳng trì giới nếu chẳng trì giới thì gọi là chơn thiệt trì giới vậy.

Nầy Thiên Tử ! Người trì giới ấy thì không chỗ mong muốn nên không thối hoàn thì thanh tịnh, vì thanh tịnh nên giải thoát, vì giải thoát nên tinh tiến, vì tinh tiến nên vô lậu, vì vô lậu nên an trụ chánh hạnh, vì trụ chánh hạnh nên không tượng mạo. Vì không tượng mạo nên tức là hư không. Tại sao ?Vì hư không kia không có hình mạo vậy. Vì thế nên, nầy Thiên Tử ! Nếu có người học được như vậy là chẳng học, vì vô học nên là chơn học. Ở chỗ nào học ? Là không chỗ học. Thế nào không có chỗ ? Đó là hư không bình đẳng. Nếu có thể chánh trụ hư không bình đẳng . Nếu có thể chánh trụ hư không bình đẳng thì gọi là chơn trụ giới học.

Lại nầy Thiên Tử ! nếu là người hay xuất gia như vậy, hay thọ cụ như vậy, tôi sẽ dạy họ như vầy :

Nầy thiện nam tử ! Nay nếu ông có thể lãnh thọ đồ cúng dường của tất cả đàn việt trong Đại Thiên Thế giới mà ở trong ấy chẳng khởi phân biệt chẳng nghĩ báo ơn thì mới gọi là thanh tịnh trì giới. Tại sao ? Vì, nầy Thiên Tử ! Nếu người nắm lấy kẻ thí kẻ thọ và tài vật ba sự đó là báo ơn. Lại nếu thấy nếu tư duy nếu phân biệt ba sự ấy đó là báo ơn. Còn nếu chẳng nắm lấy chẳng thấy chẳng tư duy chẳng phân biệt ba sự ấy thì có gì báo ơn được, tại sao ?Vì báo ơn như vậy từ bổn lai cứu cánh thanh tịnh vậy. Nầy Thiên Tử ! Nếu là người nắm lấy nếu thấy nếu tư duy nếu phân biệt nếu nghĩ nhớ báo ơn thì là phàm phu chớ chẳng phải A La Hán. Vì hàng phàm phu trong tất cả thời gian luôn thủ trước tư lương phân biệt, đây thọ kia cho, kia cấu đây tịnh , do phân biệt mà có báo ơn. Thế nào là báo ơn ? Đó là hàng phàm phu ở trong cõi sanh tử lấy thân đời sau nên ở nơi kia muốn làm sự báo ơn. Nầy Thiên Tử ! Chư A La Hán chẳng thọ thân sau, cứu cánh chẳng có thấy chẳng tư lương chẳng phân biệt có đây kia chẳng còn thọ thân thì sẽ ở chỗ nào để báo ơn vậy.

Nầy Thiên Tử ! Nếu thọ người cúng thí nên hành ba sự thanh tịnh rồi sau mới thọ, một là chẳng thấy tha nhơn tức không người thí, hai là chẳng thấy kỷ thân tức không người thọ, ba là chẳng thấy tài vật tức không có sự bố thí. Nầy Thiên Tử ! Ba sự thanh tịnh như vậy là cứu cánh thanh tịnh, thanh tịnh như đây thì còn cần gì báo ơn, do nghĩa nầy mà tôi nói rằng nếu thọ lãnh đồ cúng thí của tất cả đàn việt đốc tín trong tam thiên Đại Thiên thế giới mà chẳng phân biệt chẳng nghĩ báo ơn, người nầy được gọi là phước điền chơn thiệt thù thắngthế gian là chơn xuất gia là tịnh trì giới.

Lại nầy Thiên Tử ! Tôi làm cho người ấy xuất gia như vậy trì giới như vậy rồi, tôi sẽ còn dạy họ rằng : Nầy thiện nam tử ! Nay ông có thể chẳng hành a lan nhã chẳng ở tụ lạc, chẳng ở gần chẳng ở xa, chẳng ngồi một mình chẳng ở trong đại chúng, chẳng nói nhiều chẳng nín lặng, chẳng khất thực chẳng thọ thỉnh, chẳng dùng y phấn tảo, chẳng nhận y bát của người, chẳng ăn nhiều chẳng thiểu dục, chẳng cầu nhiều chẳng tri túc, chẳng ngồi dưới cây, chẳng ngồi chỗ trống,chẳng uống thuốc hủ lãng, chẳng thọ thịt và tô lạc.

Nầy thiện nam tử ! Nếu ông ở nơi tất cả hạnh đầu đà chẳng khởi phân biệt, hành như vậy thì gọi là hành đầy đủ đầu đà vậy. Tại sao?

Vì nếu dùng ghi nhớ để hành tức là ngã mạn nơi tâm còn thấy có các tướng, tôi thọ y phấn tảo, tôi khất thực, tôi ở dưới cây, tôi ngồi chỗ trống, tôi hành a lan nhã, tôi uống thuốc hũ lãng tôi thiểu dục, tôi tri túc, tôi hành đầu đà. Nầy Thiên Tử ! Nếu là người chánh hành thì chẳng sanh niệm tưởng như vậy, tại sao, vì người nầy không có tất cả phân biệt vậy. Người nầy còn chẳng thấy có ngã huống là có thấy công đức đầu đà. Vì lẽ ấy nên nầy Thiên Tử ! Nếu có người hành đầu đà mà chẳng ghi nhớ chẳng phân biệt như vậy thì tôi cho là chơn đầu đà vậy. Tại sao ? Vì đầu đà ấy chẳng thủ chẳng xả chẳng tu chẳng niệm chẳng tu chẳng hành phi pháp phi phi pháp. Vì thế nên tôi nói là chơn đầu đà vậy.

Lại nầy Thiên Tử ! Tôi làm cho người ấy xuất gia như vậy thật hành như vậy rồi, tôi sẽ dạy họ rằng : Nay nếu ông có thể chẳng quán tứ thánh đế chẳng tu tứ niệm xứ chẳng tu tứ chánh cần tứ như ý túc ngũ căn ngũ lực thất giác phần bát chánh đạo nhẫn đến chẳng tu ba mươi pháp trợ Bồ đề phần, chớ chứng ba môn giải thoát. Tại sao ? Vì thánh đế ấy nhập vào tướng vô sanh không thể nhớ biết chẳng thể tu chứng. Vì thế nên tôi nói luận về niệm xứ là chẳng niệm chẳng tu tất cả pháp nên gọi là niệm xứ vậy.

Nầy Thiên Tử ! Nếu Tỳ Kheo chẳng trụ Dục giới chẳng trụ Sắc giới chẳng trụ Vô sắc giới thì gọi là Tỳ kheo chẳng trụ tứ niệm xứ mà tư tu tứ niệm xứ. Thế nào là tư tu ? Như trên kia nói chẳng tư chẳng tu thì gọi là tư tu. Và theo thứ đệ như vậy nhẫn đến ba mươi bảy pháp Bồ đề phần nên biết như vậy.

Nầy Thiên Tử ! Nếu thiền hành Tỳ Kheo ấy nơi tất cả pháp đều vô sở đắc nên chẳng tư niệm chẳng phân biệt chẳng tu chẳng chứng. Tại sao ?Vì các pháp ấy chỉ có danh tự thôi . Như ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề , nó dầu có danh tựbất khả đắc, chỉ do nhơn duyên phân biệt mà sanh, là nhứt tướng vô tướng. Do danh tự như vậy nên nói như vậy, lời nói ấy cũng không. Nên nó dầu do danh tự chứng biết mà trọn bất khả đắc. Đây gọi là như thiệt giác tri ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề.

- Bạch Đại Sĩ ! Thế nào gọi là thiền hành Tỳ kheo?

- Nầy Thiên Tử ! Nếu Tỳ Kheo ấy ở nơi tất cả pháp chỉ lấy một hạnh rồi tùy thuận tột mức, nghĩa là vô sanh, đây gọi là thiền hành. Lại không có một chút pháp để lấyđây gọi là thiền hành. Chẳng lấy pháp gì ? Đó là chẳng lấy đời nầy đời kia, chẳng lấy tam giới nhẫn đến chẳng lấy tất cả pháp, bình đẳng như vậy thì gọi là thiền hành

Nầy Thiên Tử ! Như thiền hành ấy, nhẫn đến không có một pháp tương ưng , không hiệp không tán, đây là thiền hành”.

Bây giờ trong pháp hộiđa số vô lượng trăm ngàn chúng sanh đều nghi ngờ rằng : nay Ngài văn Thù Sư Lợi nói như vậy làm sao tương ưng với lời của đức Phật đã dạy, như đức Thế Tôn nói: nếu người nhập được ba môn giải thoát thì gọi là Niết bàn. Đức thế Tôn lại nói : nếu ai hay tu tập ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề thì có thể chứng Niết bàn. Nhưng nay Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bảo, chẳng nên tu ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề , cũng chớ nhập ba môn giải thoát. Có phải Ngài Văn Sư Lợi vọng thuyết ư ?

Biết quan niệm nghi ngờ của chư Tỳ kheođa số chúng hội, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát liền nói với Tôn giả Xá Lợi Phất rằng :” Nầy Tôn giả ! Nay Ngài rất nên chứng tín. Đức Phật nói Ngài trí huệ đệ nhứt.

Nầy Tôn giả ! Ở nơi đâu Ngài chứng được pháp ly dục ? Đương lúc chứng ấy há lại chẳng thấy tứ thánh đế ư ? ».

Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Chẳng có ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát hỏI : « Há lại chẳng tu ba mươi bảy pháp trợ Bồ đề ư ? ».

Tôn giả Xá Lợi Phất nói : « Chẳng có’’.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại hỏi : « Há lại chẳng nhập ba môn giải thoát ư ? ».

Tôn giả Xá Lợi Phật nói : « Chẳng có . Nầy Đại Sĩ ! Lúc ấy đối với tôi, nhẫn đến không có một pháp để thấy được trừ được tu được chứng được tuyển trạch được. Tại sao ? Vì tất cả pháp vô vi vô sanh vô ngôn là không. Nếu đã là không thì có gì để chứng được ».
Lúc nói pháp nầy, trong chúng có ba vạn Tỳ kheo nơi pháp được lậu tận ý giải tâm được giải thoát.

 
Thiện trụ Ý Thiên Tử khen Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Lành thay lành thay, thưa Đại Sĩ ! Nay Ngài chơn thiệt thông biện lợi trí khéo nói không nhẫn thậm thâm như vậy ».

VănThù Sư Lợi Bồ Tát nói : « Nầy Thiên Tử tôi chẳng phải thông biện lợi trí như vậy.Luận về lợi trí là của anh nhi phàm phu kia.Vì phàm phu mới gọi là lợi trí. Những gì là lợi trí ? Đó là địa ngục lợi trí , súc sanh lợi trí , ngạ quỉ lợi trí, nhẫn đến tam giới tất cả lợi trí . Tương ưng thủ trước như vậy được gọi là lợi trí . Tại sao ? Vì chẳng biết tiên tế của sanh tử phiền não do đây mà các phàm phu chấp trước lợi tham dục, chấp trước lợi sân khuể, chấp trước lợi ngu si nhẫn đến thủ trước tương ưng với các kiến chấp danh sắc, nên gọi là lợi trí. Chẳng phải nói chư Phật chư Thanh Văn Duyên Giác chư Bồ Tát đắc nhẫn mà có lợi trí như vậy”.

Thiện Trụ Ý Thiên Tử hỏi : “ Bạch Đại Sĩ ! Phải chăng nay Ngài muốn hiển bày trí ư ?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Chẳng có”.

Thiện Trụ Ý Thiên Tử hỏi : “Ngài muốn tùy hành ư ?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “ Chẳng có ”.

Thiên Trụ Ý Thiên Tử hỏi : “Ngài muốn tùy văn cú ư ?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Đúng như vậy. Nầy Thiên Tử ! Tôi do nơi tự cú”.

Thiện Trụ Ý Thiên Tử hỏi : “Bạch Đại Sĩ ! Nay cớ chi mà Ngài nói như vậy ?”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Nầy Thiên Tử ! Dầu chư Bồ Tát ở nơi một chữ một câu chưa bao giờ di động, nhưng đều như thiệt biết rõ các chỗ nghĩa môn xa gần sâu cạn của chữ của câu ấy. Đó là biết chỗ không chỗ vô tướng chỗ vô nguyện, biết chỗ viễn ly chỗ vô sở hữu chỗ vô sanh chỗ như như , mà ở trong ấy không có thọ không có tác không có giải không có tri . Do đó mà được nói là “duy tự cú” vậy”.

Đức Thế Tôn khen rằng : “Lành thay lành thay Văn Thù Sư Lợi, nay ông vì đã được đà la ni nên mới phân biệt nói được như vậy”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : “Bạch đức Thế Tôn ! Tôi thiệt chẳng được đà la ni ấy. Tại sao ? Vì nếu có ai được đà la ni ấy thì gọi là phàm phu ngu si mà chẳng phải chư Phật Thế Tôn và chư Bồ Tát được đà la ni. Tại sao ? vì bạch Thế Tôn ! Các chúng sanh phàm phu ngu si ấy có thủ trước nên có được đà la ni. Thủ trước những gì ? Đó là họ thủ trước ngã mà được đà la ni, họ thủ trước nhơn chúng sanh thọ mạng sĩ phu mà được đà la ni, họ thủ trước đoạn diệt thường hằng mà được đà la ni, họ thủ trước tham sân si mà được đà la ni, họ thủ trước vô minh hữu ái mà được đà la ni, họ thủ trước thân kiến ngũ ấm mười hai nhập mười tám giới mà được đà la ni, họ thủ trước ức niệm phân biệt sáu mươi hai chấp kiến mà được đà la ni, nhẫn đến họ thủ trước các hành mà được đà la ni, vì lẽ nầy nên phàm phu được đà la ni. Tại sao ? Vì nếu là pháp bị ngu si ấy thủ trước là sở đắc của phàm phu mà chẳng phải chư Phật được chẳng phải Thanh Văn được chẳng phải Bích Chi Phật được, chẳng phải Bồ Tát được, do nghĩa ấy nên chỉ có phàm phu kia được đà la ni . Tại sao ? Vì phàm phu kia do vì ngu si mà nói có thủ đắc mà chẳng phải chư Phật chư Bồ Tát vậy”.

Thiện Trụ Ý Thiên Tử lại bạch Văn Thù Sư Lợi : “Bạch Đại Sĩ ! Nếu Ngài chẳng được đà la ni toan không sa vào địa vị ngoan độn kia ư !”.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói : “Đúng vậy, Nầy Thiên Tử! Tôi chơn thiệt ngoan độn. Tại sao ? Vì luận về ngoan độn là vô sở tri , chỗ sở hành của tôi chẳng thể biết được, vì thế nên tất cả chư Phật và chư Thanh Văn Đuyên Giác Bồ Tát đều sa vào ngoan độn mà chẳng phải phàm phu. Tại sao ? Vì tất cả phàm phu ở tại trong số, các bực trí giả khác đều vào ngoan độn. Như Tu Đà Hoànchướng ngại hành nên tâm tham dục hành còn sa vào trong số huống là các phàm phu ngu si mà chẳng phải số vậy. Vì thế nên, nầy Thiên Tử ! Tôi là ngoan độn tôi chẳng được đà la ni. Tại sao ?Vì nhẫn đến một pháp , tôi vô sở đắc vậy ».

Lúc nói pháp nầy, trong đại chúng có năm trăm Tỳ kheo nghe pháp như vậy chẳng thể tín thọ sanh đại khủng bố khởi lòng phỉ báng bỏ đi , họ liền tự thấy thân mình đọa đại địa ngục.

Tôn giả Xá Lợi Phất nói với văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « Ngài nên thôi chớ nói kinh điển thậm thâm như vậy. Tại sao ?Vì trong hội nầy có năm trăm Tỳ kheo nghe pháp môn ấy chẳng thể tín thọ khởi lòng phỉ báng liền tự thấy thân mình ở đại địa ngục ’’.

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nói với Tôn giả Xá Lợi Phất : « Nay Tôn giả chẳng nên vọng sanh phân biệt. Tại sao ? Vì nhẫn đến không có một pháp đọa địa ngục, vì tất cả các pháp vô sanh vậy. Nay sao Tôn giả bỗng bảo tôi thôi chớ tuyên pháp môn ấy. Nầy Tôn giả ! Nếu có thiện nam tử thiện nữ nhơn y chỉ ngã kiến y chỉ chúng sanh nhơn thọ mạng kiến dầu có trọn đời cúng dường tất cả bửu vật đồ dùng cho chư Phật và Tỳ Kheo Tăng mà chẳng được nghe pháp thậm thâm nầy thì trọn chẳng giải thoát mau chứng Niết bàn. Nếu lại có người nghe tôi nói pháp thậm thâm không vô tướng vô nguyện vô tác tịch tĩnh vô sanh vô diệt vô ngã nhơn chúng sanh thọ mạng vô thường khổ vô ngã, họ nghe rồi không tín thọ phỉ báng mà đọa địa ngục, nhưng nầy Tôn giả, vì họ được nghe pháp thậm thâm nên dầu đọa địa ngục sau khi ra khỏi địa ngục mau được Niết bàn”.

Đức Phật khen rằng :” Lành thay lành thay, đúng như lời của Văn Thù Sư Lợi . Nếu ai được nghe kinh điển thậm thâm nầy thì đồng như được gặp Phật xuât thế. Tại sao ? Vì người muốn chứng Tu Đà Hoàn quả cần phải do kinh nầy, người muốn chứng Tư Đà Hàm A Na HàmA La Hán đều phải nghe kinh nầy. Tại sao ? Vì chẳng chấp ngã mới chứng được pháp. Vì lúc chứng pháp không có sở kiến không có sở đắc vậy”.

Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá Lợi Phất : “Ông nên biết năm trăm Tỳ kheo ấy dầu đọa địa ngục sau nầy ra khỏi địa ngục họ mau chứng Niết bàn, chẳng phải kẻ phàm phu ngu si kia chìm nơi kiến chấp sa vào lòng nghi cúng dường Như Laiđược giải thoát.

Nầy Xá Lợi Phất ! Chư tỳ kheo ấy còn nhơn nghe pháp thậm thâm nầy ngày sau sẽ được giải thoát mau chứng Niết bàn, chẳng phải người khác mau được giải thoát. Tại sao ? Vì chẳng được nghe pháp thậm thâm nầy vậy.

Nầy Xá Lợi Phất ! Nếu thiện nam tử thiện nữ nhơn được nghe pháp môn thậm thâm nầy một lần qua tai, dầu họ chẳng tin thọ bị đọa địa ngục nhưng sẽ mau được giải thoát. Còn kẻ chấp kiến bị đọa địa ngục thì chưa giải thoát được”.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25923)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 17908)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 16730)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 22102)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 16019)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 20658)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 16303)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 15455)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 15040)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13465)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14619)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 15124)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 15482)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 14956)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 17039)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 17620)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 12630)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 18167)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 13765)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 19433)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 14361)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 15634)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 14366)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 16168)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 18258)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 14695)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 13823)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 14100)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 14375)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 14320)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 16022)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 15508)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 18153)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 13609)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 16262)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 13128)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 12709)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 14996)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 15788)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 15196)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 14844)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 15085)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 14348)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 11816)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 15689)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 11669)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 15285)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 18088)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 13592)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 14518)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 13119)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 14167)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 12299)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 12574)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 12262)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 13340)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 14346)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 12392)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 14076)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 12931)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant