Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

36-04-phẩm Phá Ma

01 Tháng Năm 201000:00(Xem: 8637)
36-04-phẩm Phá Ma

KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XXXVI
PHÁP HỘI

THIỆN TRỤ Ý THIÊN TỬ

THỨ BA MƯƠI SÁU

Hán dịch : Tùy : Pháp Sư Đạt Ma Cấp Đa
Việt dịch : Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

PHẨM PHÁ MA
THỨ TƯ

Bấy giờ Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nay thoại tướng nầy do ai làm mà có thể khiến Đại Thiên thế giới đại địa chấn động sáu cách, lại còn nhà báu tòa liên hoa chư Hóa Bồ Tát phóng quang minh lớn soi sáng chúng hội diễn nói thâm pháp vi diệu, khiến vô lượng ức số chư Thiên Tử đều đến tập họp và ức số chư Bồ Tát cũng vân tập đến ? ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Xá Lợi Phất ! Đây là thần lực của Văn Thù Sư Lợi hiện ra những sự vi diệu trang nghiêm như vậy, cũng khiến chư Bồ Tátchư Thiên vân tập. Nầy Xá Lợi Phất ! Văn Thù Sư Lợi cùng Thiện Trụ

Ý Thiên Tử dắt đại chúng muốn đến chỗ Phật thỉnh hỏi về pháp môn Phá tán chư ma tam muội để thành tựu đầy đủ các Phật pháp thậm thâm bất tư nghị ».

Tôn giả Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nếu như vậy sao tôi xem khắp đại chúng mà trọn chẳng thấy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ? ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Xá Lợi Phất ! Ông chờ một chút, nay Văn Thù Sư Lợi cùng tất cả Ma Vương tất cả Ma chúng tất cả ma cung mà làm sự suy hao lớn, đó là thần biến cực vi diệu trang nghiêm sắp đến chỗ ta, ông sẽ tự thấy ».

Lúc nầy Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nhập Phá tán chư ma tam muội, do sức tam muội làm cho trong Đại Thiên thế giới trăm ức cung điện ma cũ mục tối tăm như sắp rã hư , không còn oai quang khiến tất cả ma chẳng thích chỗ mình ở , họ đều thấy thân hình mình già suy ốm gầy chống gậy mà đi, hàng thiên nữ biến thành bà già. Thấy sự như vậy, tất cả ma rất ưu sầu Cả mình rởn ốc hãi sợ suy nghĩ rằng : đây là biến quái gì mà khiến cho trong ngoài của ta đầy những bất tường, phải chăng là sắp chết mất đến lúc bị quả báo suy tán ư ? Hay là thế gian sắp bị hoại kiếp ư ?

Lúc chúng ma lo sợ suy nghĩ như trên, Văn Thù Sư Lợi bồ Tát dùng thần lực hiện ra trăm ức Thiên Tử đứng trước chúng ma bảo rằng : « Mọi người chớ lo sợ, đây chẳng phải tai họa của các người cũng chẳng phải kiếp hoại. Nay có Bồ Tát Đại Sĩ trụ bất thối chuyển tên là Văn Thù Sư Lợi có đại oai thần đạo đức siêu thế đang nhập Phá tán chư ma tam muội, do sức tam muội ấy mà có sự việc như thế nầy chớ chẳng phải có chi khác ».

Chư ma vương và ma chúng nghe Hóa Thiên Tử nói đến tên Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát họ càng tăng thêm kinh sợ run rẩy chẳng an, tất cả cung điện ma đều chấn động dữ dội.

Chư ma vương thưa với Hóa Thiên Tử : « Xin Ngài đại từ cứu tai ách cho chúng tôi ».

Chư Hóa Thiên Tử nói : « Chớ sợ chớ sợ, các người mau đến chỗ đức Thích Ca Mâu Ni Phật. Tại sao ? Vì đức Phật Như Lai ấy có đại từ bi, nếu có chúng sanh quá lo sợ thì chỉ đến quy y với Phật đều liền được an lạc trừ hết lo khổ”. Nói xong, chư Hóa Thiên Tử bỗng ẩn mất.

 
Chư ma vương và ma chúng nghe lời chỉ trên tất cả đều vui mừng cùng nhau chống gậy trong khoảnh khắc đến chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật đồng thanh bạch rằng : « Đại Đức Thế Tôn xin được cứu hộ, xin được cứu hộ khỏi tai quái khốn khổ đại họa nầy.

Bạch Thế Tôn ! Thà chúng tôi thọ danh hiệu của muôn ngàn vạn ức chư Phật chứ chẳng mong nghe một tên Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát. Tại sao ? Vì khi chúng tôi một lần nghe đến tên Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thì rất kinh sợ như bị táng mạng”.

Đức Phật phán dạy : « Nầy Ba Tuần ! Nay sao các ông bỗng thốt lên lời như vậy. Tại sao ? Vì Văn Thù Sư Lợi Đại Sĩ phàm hể khai đạo thì đều làm lợi ích cho chúng sanh . Ức trăm ngàn Phật trước kia hiện nay và sau nầy đều không có làm sự ấy. Chỉ có Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuở quá khứ hiện tại vị lai thường vì chúng sanhkiến lập đại sự như vậy, lúc chúng sanh thành thục rồi thì Ngài đặt vào trong giải thoát, do đó mà các ông dầu nghe danh hiệu trăm ngàn Phật mà chẳng sanh lòng khổ não cũng chẳng kinh sợ. Sao các ông lại nói chúng tôi nghe tên một Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thì đều rất kinh sợ”.

Chư ma bạch rằng : 

« Bạch đức Thế Tôn ! Chúng tôi thiệt hổ thẹn với thân hình già xấu nầy thêm quá kinh sợ nên nói như vậy.

Bạch đức Thế Tôn ! Từ nay chúng tôi quy y đấng Chánh Giác, ngưỡng mong thương xót hoàn phục thân hình cho ».
Đức Phật phán dạy : « Các ông chờ giây lát, văn Thù Sư Lợi đến đây rồi sẽ trừ hết sự xấu hổ cho các ông ».

Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát từ tam muội dậy cùng vô lượng trăm ngàn thiên chúng, vô lượng trăm ngàn đại Bồ Tátvô lượng trăm ngàn chư Long Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, khẩn Na La, Ma Hầu La Già trước sau vây quanh, lại trổi vô lượng trăm ngàn âm nhạc, lại mưa vô lượng hoa trời vi diệu, đủ đại trang nhiêm có đại thần thông oai đức vô cực đồng đến chỗ đức Phật đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng rồi lui ở một bên.

Đức Phật phán dạy : « nầy Văn Thù Sư Lợi ! Có phải ông đã nhập Phá tán chư ma tam muội chăng ?.

Văn Thù Sư Lợi bồ Tát bạch rằng : « Vâng, bạch đức Thế Tôn ! Tôi đã có nhập ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Từ đức Phật nào mà ông được nghe dạy tam muội ấy và ông tu bao lâu được thành mãn ? »

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Lúc tôi chưa phát tâm Bồ đề, được nghe tam muội ấy nơi đức Phật ».

Đức Phật phán dạy : « Đức Phật ấy danh hiệu là gì ? ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Tôi nhớ thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghị a tăng kỳ kiếp, thuở ấyđức Phật hiệu Mạn Đà La Hoa Hương Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, xuất hiện thế gian tuyên nói Phá tán chư ma tam muội ấy, lúc ấy tôi sơ khởi được lắng nghe ».
Đức Phật phán dạy : « Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Tam muội như vậy tu thế nào để được ? ».

Văn Thù Sư Lợi bạch rằng : « Bạch đức Thế Tôn ! Nếu đại Bồ Tát thành tựu đủ hai mươi pháp thì được Phá ma tam muội ấy.

Một là quở trách tham dục phá hoại lòng tham 
. Hai là quở trách sân nộ phá hoại lòng sân. Ba là quở trách ngu si phá hoại lòng si.

Bốn là quở trách tật đố phá hoại lòng đố. Năm là quở trách kiêu mạn phá hoại lòng mạn. Sáu là quở trách ngũ cái phá hoại lòng cái. Bảy là quở trách nhiệt não phá hoại lòng não. Tám là quở trách tưởng niệm phá hoại lòng tưởng. Chín là quở trách các kiến phá hoại lòng kiến. Mười là quở trách phân biệt phá hoại lòng phân biệt. Mười một là quở trách thủ sự phá hoại lòng thủ. Mười hai là quở trách chấp trước phá hoại lòng chấp. Mười ba là quở trách các tướng phá hoại tâm tướng. Mười bốn là quở trách pháp có phá hoại lòng có. Mười lăm là quở trách pháp thường phá hoại lòng thường. Mười sáu là quở trách pháp đoạn phá hoại lòng đoạn. Mười bảy là quở trách các ấm phá hoại lòng ấm. Mười tám là quở trách các nhập phá hoại lòng nhập. Mười chín là quở trách các giới phá hoại lòng giới. Hai mươi là quở trách tam giới phá hoại lòng tam giới. Đại Bồ Tát đủ hai mươi pháp nầy thì thành tựu tam muội ấy.

Bạch đức Thế Tôn ! Lại có bốn pháp, Bồ Tát tu hành đầy đủ thì thành tựu Phá ma tam muội ấy.

Một là kiến lập tâm hành thanh tịnh điều nhu . Hai là tâm tánh thuần trực không có các

siểm khúc. Ba là tâm không phan duyên nhập thâm pháp nhẫn. Bốn là nội ngoại sở hữu hay xả thí tất cả.

Bạch đức Thế Tôn ! Đại Bồ Tát còn có bốn pháp hay được tam muội ấy : những là cứu cánh thâm tín, thành tựu thiệt ngữ, thường thích không nhàn và chẳng nắm lấy các tướng.

Đại Bồ Tát còn có bốn pháp hay được tam muội ấy : những là gần gũi thiện hữu, thường biết chỉ túc, ngồi một mình tư duy và chẳng thích ồn ào

Đại bồ Tát còn có bốn pháp hay được tam muội ấy : những là giới chẳng phá hoại, giới chẳng khuyết phạm, giới vô sở y và giới chẳng vọng báo.

Đại Bồ Tát còn có bốn pháp hay được tam muội ấy : những là bỏ tâm Thanh Văn, lìa tâm Duyên Giác, an trụ Bồ Tát nhẫn và chẳng bỏ chúng sanh.

Đại Bồ Tát còn có bốn pháp hay được tam muội ấy, những là tu không trừ ngã, lìa tướng không có tướng, vô nguyện trừ nguyện và xả bỏ các sở hữu

Bạch đức Thế Tôn ! Thuở ấy đức Mạn Đà La Hoa Hương Như Lai tuyên nói pháp môn

Phá tán chư ma ấy tôi được nghe và bắt đầu tu tập.

Kế lại có Phật hiệu Nhứt Thiết Bửu Điện Tế Nhựt Nguyệt Quang Như Lai Ứng Đẳng Chánh Giác, bấy giờ ở nơi tam muội ấy tôi thành tựu đầy đủ. Đức Thế Tôn ấy tuyên nói pháp môn nầy trong chúng hội ấy có mười ngàn Bồ Tát thành tựu pháp môn Phá tán chư ma tam muội. Tôn giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật : « Hi hữu Thế Tôn ! Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát nầy có thể từ thuở xa xưa thành tựu Phá ma tam muội, do nơi lực tam muội khìến Ba Tuần và ma chúng tóc bạc già nua hình chí đều suy đến đỗi thế nầy ».

Đức Phật phán dạy : « Nầy Xá Lợi Phất ! Nay ông cho rằng Văn Thù Sư Lợi riêng một Đại Thiên thế giới nầy biến chúng ma làm cho già suy thôi ư ! Ông chớ quan niệm như vậy. Tại sao ? Vì hiện nay trong mười phương hằng sa Phật độ tất cả chúng ma đều biến hoại như vậy cả, đều do oai lực của Văn Thù Sư Lợi làm ra vậy ».

Đức Phật bảo Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát : « : Nay ông nên nhiếp thần lực của ông lại khiến tất cả chúng ma hoàn phục bổn hình ».

Tuân lời đức Phật, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo chúng ma rằng : « Các Ngài có thiệt chán sợ thân hình nầy chăng ? ».

Chúng ma bạch rằng : « Vâng, bạch Đại Sĩ ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bảo : « Nếu như vậy thì các Ngài cũng nên chán sợ tham dục chớ luyến tam giới ».
Chúng ma bạch rằng : « Lành thay Đại Sĩ, kính nghe lời dạy tốt há dám sai trái, mong Đại Sĩ cho chút oai thần trừ sự khổ xấu hổ nầy ».

Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát liền nhiếp thần lực khiến chúng ma hoàn phục thân hình chư Thiên trang nghiêm như cũ rồi bảo chúng ma rằng : « Nầy Ba Tuần !Như nhãn sở hữu của Ngài, gì là nhãn ? Gì là nhãn tưởng ? Như vậy chỗ nào là nhãn trước, là nhãn tướng, là nhãn phan duyên, là nhãn chướng ngại, là nhãn tư, là nhãn ngã, là nhãn y chỉ, là nhãn hỉ lạc, là nhãn hí luận, là nhãn ngã sở, là nhãn hộ, là nhãn niệm, là nhãn thủ, là nhãn xả, là nhãn phân biệt, là nhãn tư lương,là nhãn thành tựu, là nhãn sanh, là nhãn diệt, là nhãn lai khứ ? Các pháp như vậy là cảnh giới của Ngài, ma nghiệp chướng ngại.

Như nhãn, với nhĩ tỉ thiệt thân và ý cũng như vậy.

Lại như sắc, thanh hương vị xúc và pháp cũng như vậy. Các Ngài đều phải nên biết rõ như thiệt.

Lúc Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát thuyết pháp ấy trong chúng có một vạn ma vương Ba Tuần đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Tám vạn bốn ngàn các ma quyến thuộc xa lìa trần cấu được pháp nhãn thanh tịnh.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49666)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34598)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33419)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43874)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56980)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47508)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39379)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38428)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52874)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36566)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32204)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40397)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43429)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31420)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46671)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36133)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28661)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29185)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31841)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28766)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33310)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29089)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60952)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39691)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26616)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29633)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37310)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40039)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26811)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42599)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37220)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28254)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28869)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26354)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27130)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26160)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34559)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27775)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30437)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33203)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28521)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30030)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25458)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21809)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51241)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26680)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28576)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27673)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24325)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27424)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31879)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30148)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27657)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35386)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27399)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29974)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31715)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22980)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24140)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22984)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant