Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký

30 Tháng Tư 201000:00(Xem: 8137)
16-19 Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
KINH ĐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XVI
PHÁP HỘI
BỒ TÁT KIẾN THIỆT
THỨ MƯỜI SÁU

Hán Dịch: Cao Tế, Pháp Sư Nan Liên Đề Gia Xá
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Phẩm Chư Phạm Thiên Thọ Ký
Thứ Mười Chín


 Bấy giờ có chín ngàn vạn trời Phạm Chúng thấy A Tu La nhẫn đến trời Tha Hóa Tự Tại cúng dường Phật được thọ ký, họ đều vui mừng hớn hở vừa lòng. Họ ở nơi thiền thế đế lấy hỉ duyệt làm sự ăn ở trong Phật pháp cũng được trí huệ sáng, vì họ đã trồng thiện căn gần gũi cúng dường chư Phật tin sâu thanh tịnh. Ở nơi pháp thậm thâm họ được pháp nhẫn. Chư Phạm Chúng Thiên ấy biết các pháp vô tác phi vô tác, phi sanh phi bất sanh, phi hữu phi bất hữu, phi khởi phi bất khởi, phi diệt phi bất diệtphi y phi bất y, phi thanh phi trược, phi tắng phi ái, phi hiền phi ngu, phi tri phi bất tri, phi kiến phi bất kiến, phi thọ phi bất thọ, phi trắc ẩn phi bất trắc ẩn, phi vô phi phi vô, phi vật phi phi vật, phi khả đắc phi bất khả đắc, phi khứ phi lai, phi thú phi bất thú, phi không phi bất không, phi tướng phi bất tướng, phi nguyện phi bất nguyện.

 Chư Phạm Thiên ấy đối với tất cả pháp lòng không chấp trước, cũng không chỗ trụ. Ở trong phi dụng họ chẳng ý tưởng phi dụng, ở trong phi bất dụng cũng chẳng ý tưởng phi bất dụng. Ở trong ngôn ngữ họ chẳng ý tưởng ngôn ngữ, ở trong phi ngôn ngữ cũng chẳng ý tưởng phi ngôn ngữ. Ở trong hữu tác họ không ý tưởng hữu tác, ở trong vô tác cũng không ý tưởng vô tác. Ở nơi phàm phu họ không ý tưởng phàm phu, ở trong phi phàm phu cũng không ý tưởng phi phàm phu. Ở nơi pháp phàm phu họ không ý tưỏng pháp phàm phu, ở nơi pháp phi phàm phu cũng không ý tưởng pháp phi phàm phu. Ở nơi Thanh Văn họ không ý tưởng Thanh Văn, ở nơi phi Thanh Văn cũng không ý tưởng phi Thanh Văn. Ở nơi pháp Thanh Văn họ không ý tưởng pháp Thanh Văn, ở nơi pháp phi Thanh Văn cũng không ý tưởng pháp phi Thanh Văn. Ở nơi Duyên Giác họ không ý tưởng Duyên Giác, ở nơi phi Duyên Giác cũng không ý tưởng phi Duyên Giác. Ở nơi pháp Duyên Giác họ không ý tưởng pháp Duyên Giác, ở nơi pháp phi Duyên Giác cũng không ý tưởng pháp phi Duyên Giác. Ở nơi

 
 Bồ Tát họ không ý tưởng Bồ Tát. Ở nơi phi Bồ Tát cũng không ý tưởng phi Bồ Tát. Ở nơi pháp Bồ Tát họ không ý tưởng pháp Bồ Tát, ở nơi pháp phi Bồ Tát họ không ý tưởng pháp phi Bồ Tát. Ở nơi Phật họ không ý tưởng Phật, ở nơi phi Phật cũng không ý tưởng phi Phật. Ở nơi pháp Phật họ không ý tưởng pháp Phật, ở nơi phi pháp Phật cũng không ý tưởng phi pháp Phật. Ở nơi Niết bàn, họ chẳng ý tưởng Niết bàn, ở nơi phi Niết bàn cũng không ý tưởng phi Niết bàn. Ở nơi pháp Niết bàn họ không ý tưởng pháp Niết bàn, ở nơi pháp phi Niết bàn cũng không ý tưởng pháp phi Niết bàn. Ở nơi sanh tử họ không ý tưởng sanh tử, ở nơi phi sanh tử cũng không ý tưởng phi sanh tử. Chư Phạm Chúng Thiên ấy đối với tất cả thảy đều lìa phân biệt, tâm định thanh tịnh . Họ đã được tâm thanh tịnh nên dùng pháp tịch diệt nói kệ tán thán đức Phật :

 « Đại Thánh trí tịch tĩnh rất sâu
 Tu hành tịch diệt đến bỉ ngạn
 Diễn nói tịch diệt độ chúng sanh
 Cũng tự thường hành pháp tịch diệt
 Bồ dề tịch diệt khéo thanh tịnh
 Pháp nầy là cảnh giới Như Lai
 
 Mau được tịch diệt thắng cam lộ
 Do đó nay được hết sanh tử
 Hằng nói đạo tịch diệt vi diệu
 Là chổ sở hành của người trí
 Đường bát chánh diệt phiền não trược
 Cứu vớt tất cả các quần sanh
 Khéo tu tịch diệt chúng Bồ đề
 Là chổ sở hành của Phật trước
 Pháp ấy hay đến thành an ổn
 Chỗ chứng biết của Phật quá khứ
 Là pháp tu học của Như Lai
 Phật giáo hóa thế gian như vậy
 Nếu người hay hành pháp hữu học
 Chứng được vô học thắng Bồ đề
 Nhứt tâm xu hướng đạo tịch diệt
 Các căn tịch tĩnh lâu tu tập
 Sẽ được làm Phật Thế Gian Giải
 Sức na la diên độ quần sanh
 Nếu biết pháp tịch diệt cam lộ
 Hay hết tất cả tướng sanh tử
 Đây là chơn thiệt con Như Lai
 Tịch diệt hay trừ khổ thế gian
 Chúng ấy chưng bày cúng dường Phật
 
 Thắng thượng hi hữu rất khác lạ
 Nói pháp tịch hết phiền não
 Nơi những vô tướng tối đệ nhứt
 Thế gian tịch diệt lìa các tướng
 Nghĩa là tịch diệt tức Niết bàn
 Chúng sanh luân chuyễn thọ những khổ
 Vì lìa tịch diệt thủ tướng vậy
 Các pháp của Phật bất tư nghị
 Tức là Bồ đề nhứt thiết trí
 Qua khỏi sình lầy đến bờ kia
 Nên Phật trọn hẳn không nghi lự
 Nếu người lìa ấm được giải thoát
 Nơi Phật đại thừa chẳng nguyện ưa
 Muốn cầu Bồ đề nghĩ diệt độ
 Nơi năm ấm ấy sanh bố úy
 Tâm tịnh ly dục cầu Niết bàn
 Chúng ấy chúng giản trạch như vậy
 Nơi pháp thủ tướng cảnh phàm phu
 Đó là lời dạy của Như Lai
 Nếu thủ tịch diệt tức bị trói
 Do đó chẳng được Nhứt thiết trí
 Nếu người ở nơi tướng năm ấm
 Chẳng sanh lòng giữ cầm thủ trước
 
 Họ hay lợi ích pháp Thích Ca
 Đây gọi hạnh hỉ lạc vô tướng
 Hay được chổ vô danh an ổn
 Đến được Bồ đề cảnh giới Phật
 Hàng ma tranh luận diệt phiền nảo
 Mau được thành tựu Nhứt thiết trí
 Chúng tôi tán thán Vô Thượng Sĩ
 Chỗ chứng tịch diệt các công đức
 Chỉ Phật đại trí hay biết rõ
 Hồi thí chúng sanh nguyện thành Phật”.

 Lúc ấy chủ thế giới Ta Bà Đại Phạm thiên Vương biết chư Phạm Thiên tán thán Phật rồi, đối trước Phật đứng thẳng dùng chơn thiệt công đức nói kệ khen ngợi đức Phật:

 “Pháp Vương đã biết tất cả pháp
 Chẳng thiệt hư dối như không quyền
 Cũng như thu vân và chớp nháng
 Thế nên Đại Thánh lìa thủ tâm
 Cũng như trong mộng người quá đói
 Ăn món cam lộ trăm vị ngon
 Người mộng đói ăn đều chẳng thiệt
 Như Lai thấy pháp cũng như vậy
 Lại như trong mộng người quá khát
 Được uống nước mát lạnh trong sạch
 Mộng khát uốn nước đều hư vọng
 Phật thấy các pháp cũng như vậy
 Không tác không thọ không chúng sanh
 Không có tác nghiệp và được báo
 Cũng không được người thọ quả báo
 Thế Tôn nơi đây không nghi lự
 Ví như lời hay được người mến
 Nhưng ngôn ngữ ấy vô khả thủ
 Cũng không người nói và người nghe
 Đại Thánh biết rõ đều chẳng thiệt
 Như nghe tiếng hay đờn không hầu
 Tiếng ấy cũng không tánh chơn thiệt
 Thế Tôn thấy các ấm như vậy
 Biết ấm không tánh bất khả đắc
 Dường ngọc ma ni chất tự sạch
 Cột nó trên áo theo màu đổi
 Các pháp tự thể vốn thanh tịnh
 Hư vọng phân biệt thêm điên đảo
 Ví như áo trắng sạch không dơ
 Tùy thọ màu nhuộm nhiều biến đổi
 Các pháp cũng đều tánh tự sạch
 Tùy chỗ phân biệtô nhiễm
 Dường như có người nghe tiếng ốc
 Tìm tiếng ốc ấy từ đâu đến
 Tiếng ấy chẳng tự chẳng phải tha
 Đại Tiên thấy pháp cũng như vậy
 Như người nghĩ tưởng món ăn ngon
 Món ấy các duyên hiệp lại thành
 Món ăn thảy đều không tự tánh
 Như Lai thấy pháp đều như vậy
 Vì như đất đá xây làm thành
 Suy thể của thành không tự tánh
 Các duyên như vậy thảy đều không
 Pháp Vương thấy pháp cũng như vậy
 Ví như có người đánh trống lớn
 Dầu khiến người nghe lòng mừng rỡ
 Tiếng trống các duyên thảy đều không
 Đại Thánh thấy các pháp cũng như vậy
 Ví như có người lúc đánh trống
 Tiếng trống chẳng từ mười phương đến
 Tiếng dứt cũng chẳng đến mười phương
 Thế Tôn thấy pháp đều như vậy
 Người ấy như vậy đánh trống rồi
 Trống ấy chẳng sanh lòng yêu ghét
 Cũng chẳng phân biệt tánh các duyên
 Phật thấy các pháp đều như vậy
 Lại như người ấy đánh trống hay
 Tiếng chẳng có ý khiến người mừng
 Và các duyên kia cũng đều vậỳ
 Đạo Sư thấy pháp đều như vậy
 Như lúc người đánh trống hay kia
 Trống ấy chẳng sanh tưởng khổ vui
 Cũng chẳng quan sát tánh các duyên
 Như Lai thấy pháp đều như vậy
 Dường như có người đánh trống hay
 Tiếng chẳng tức duyên chẳng ly duyên
 Và duyên nhạc kia cũng nhu vậy
 Mâu Ni thấy pháp đều như vậy”.

 Đức Thế Tôn biết chư Phạm ThiênPhạm Vương thâm tâm kính tín và dùng pháp tịch diệt tán thán đức Phật, lại muốn cho đại chúng sanh thiện căn nên liền hiện tướng mỉm cười.

 Huệ Mạng Mã Thắng nói kệ bạch hỏi Phật:

 “Đã thấy Như Lai miệng phóng ra
 Ánh sáng mỉm cười rất thanh tịnh
 Thế gian Trời Người các đại chúng
 Tất cả đều sanh lòng hi hữu
 Vì thấy Thế Tôn hiện mỉm cười
 Pháp hội đại chúng đều hoài nghi
 Tất cả chiêm ngưỡng mặt Như Lai
 Ân cần mong muốn được lắng nghe
 Mong Phật khai thị có mỉm cười
 Dứt trừ lòng nghi của đại chúng
 Tối Thắng Mâu Ni chẳng không nhơn
 Mà hiện tướng cười rất hi hữu
 Chư Phật lúc hiện ánh sáng cười
 Quyết để lợi ích các thế gian
 Nay vì ai Phật hiện tướng cười
 Ngưỡng mong giải bày nói rành rẽ
 Đại chúng được nghe chắc vui mừng
 Vì đã được biết duyên cớ vậy
 Nay đại chúng nầy đều chắp tay
 Nhứt tâm chiêm ngưỡng ưa thích nghe
 Thế nên xin Phật giải thích cho
 Chắc sẽ trừ dứt những nghi hoặc
 Đạo Sư vì các chúng hội nầy
 Xin thương tuyên nói cớ mỉm cười
 Chúng hội được nghe chắc mừng rỡ
 Vì đã rửa sạch lưới nghi ngờ
 Lòng chúng chắc bền đều thanh tịnh
 Chuyên niệm quí trọng đức Như Lai
 Đại chúng chiêm ngưỡng dung nhan Phật
 Dường như nhìn thấy trăng mới mọc
 Đủ tám tiếng hay như Phạm Thiên
 Nhứt tâm khát ngưỡng mong sớm nghe
 Trời Người đại chúng nghe Phật nói
 Chắc trừ được nghi trụ chánh pháp
 Phạm âm diễn nói tương ưng nghĩa
 Được nghe xuất thế pháp rất sâu
 Phật trí thiện xảo hay vui đẹp
 Nên khiến đại chúng thêm hớn hở
 Chúng nầy lòng sạch lìa nghi ngờ
 Ưa thích Như Lai Nhứt thiết trí
 Người tinh tấn dũng mãnh hữu lực
 Mới có chí cầu vô thượng đạo
 Thế nên Đạo Sư thương thế gian
 Ngưỡng mong giải thích cho chúng mừng
 Lành thay Thế Tôn lòng bình đẳng
 Thương xót tất cả các chúng sanh
 Khiến các đại chúng thêm thiện căn
 An tâm bất động cầu Phật trí”.

 
 Đức Thế Tôn nói kệ đáp Huệ Mạng Mã Thắng:

 “Thương xót tất cả các thế gian
 Nên Phật thị hiện tướng cười sáng
 Ông phải lắng nghe nhơn duyên ấy
 Nghĩa đó rất sâu câu vi diệu
 Các chúng hội đây nếu được nghe
 Phát cần tinh tấn tu pháp lành
 Sẽ làm lợi ích các chúng sanh
 Nơi pháp của Phật khởi thắng hạnh
 Các Phạm Thiên đây đều mừng rỡ
 Ở trong pháp Phật đều không nghi
 Na do tha kiếp lâu tu hành
 Dường như số kiếp cát sông Hằng
 Nơi các cảnh giới đều chẳng trước
 Lòng như không gian không chướng ngại
 Dầu thích thường tu Bồ Tát hạnh
 Mà chẳng mau thủ chứng Bồ đề
 Chúng ấy lại ở đời vị lai
 Vô lượng ức kiếp số hằng sa
 Chúng trời thanh tịnh không nhơ uế
 Được thế lực lớn trụ thế gian
 Sau đó sẽ thành Nhứt thiết trí
 Làm đại Pháp Vương có oai lực
 Đầy đủ công đức hết sanh tử
 Xem các thế gian đều không tịch
 Phật ấy như trước lâu tu hành
 Thọ mạng hạn lượng lâu cũng vậy
 Lúc chư Phật ấy trụ thế gian
 Hay cứu độ các chúng sanh khổ
 Quốc độ Phật ấy không đâu bằng
 Thế giới nghiêm tịnh rất thạnh vượng
 Trong vô lượng na do tha kiếp
 Như Lai diễn nói cũng chẳng hết
 Cõi nước Phật ấy sự nghiêm tịnh
 Vô lượng Phật nói cũng chẳng hết
 Phật ấy đồng hiệu Đại Trí Lực
 Quốc độ thảy đồng tên Tối Thắng
 Vì chúng diễn nói pháp bất động
 Bất khả tư nghị vô sở y
 Quốc độ Phật ấy các chúng sanh
 Thảy đều tu hành các thiện căn
 Không một chúng sanh còn đời sau
 Trong vòng sanh tử lại sanh nữa
 Đương thời chúng ấy có một khổ
 Nơi thế gian ấy bèn hiển hiện
 Chỉ sợ các hành đều vô thường
 Khiến các chúng sanh khởi nhàm lìa
 Thuở đó chúng sanh trong cõi ấy
 Lìa các tướng khổ già bịnh chết
 Tất cả đều nương một giáo pháp
 Đồng chán vô thường tu thắng hạnh
 Chúng sanh cõi đó đương lúc ấy
 Tai chẳng còn nghe âm thanh khác
 Chỉ nghe bất tịnh vô thường khổ
 Vô ngã tịch diệt không vô tướng
 Cam lộ Niết bànBồ đề
 An ổn thanh lương vô thượng lạc
 Những tiếng thắng diệu như vậy thảy
 Hằng thường luôn luôn mà được nghe
 Lúc đó không còn âm vang khác
 Hoặc cây hoặc vách hoặc đất trống
 Hoặc là trên không và chùa miếu
 Chỉ nghe những câu vi diệu ấy
 Nghe rồi tất cả đều đắc đạo
 Bèn ở nơi sanh tử được giải thoát
 Đều do thần lực của Như Lai
 Đủ tám công đức âm thanh diệu
 Lúc đó không có tâm tạp độc
 Những là tham dụcsân khuể
 Cũng không ngu si phát tiếng ác
 Lời thô bức não đến bên tai
 Tất cả nhàm trái nơi sanh tử
 Xu hướng Niết bàn đường thẳng lớn
 Cõi ấy tất cả đều đúng không
 Phật và chúng sanh đều diệt độ
 Đây là thần lực của Phật ấy
 Phát chí nguyện rộng chẳng nghĩ bàn
 Đã ở quá khứ do tha kiếp
 Vì cầu Bồ đề tu đạo hạnh
 Bao nhiêu chúng sanh tại nước ấy
 Tất cả sẽ đều được làm Phật
 Chư Phạm Thiên nầy phát nguyện rộng
 Đều do quan sát câu tịch diệt
 Đều được chứng biết nghĩa thậm thâm
 Hiễu rõ đường cát tường của Phật
 Chỗ họ tu học đều thông đạt
 Làm Đạo Sư tại các thế gian
 Họ quan sát được chúng sanh không
 Chẳng sanh lòng giải đãi nhàm mỏi
 Do đó nhập được các pháp tánh
 Tu tập Bồ Tát thắng diệu hạnh”.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49781)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34659)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33473)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43966)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57124)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47599)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39447)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38501)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52988)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36628)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32268)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40521)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43526)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31484)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46750)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36231)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28735)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29277)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31927)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28866)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33404)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29172)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61033)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39817)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26714)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29707)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37422)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40134)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26876)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42709)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37311)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28327)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28911)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26418)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27201)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26212)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34722)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27835)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30512)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33329)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28592)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30105)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25505)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21870)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51355)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26766)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28650)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27738)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24377)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27496)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31987)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30229)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27746)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35495)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27482)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30049)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31821)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23056)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24209)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23063)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant