Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Quan Niệm về Nghiệp của Phật Giáo với Tự Do Ý Chí

01 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 10302)
Chương 2: Quan Niệm về Nghiệp của Phật Giáo với Tự Do Ý Chí


ĐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN
Tác Giả: Kimura Taiken

Hán Dịch: Thích Diễn Bồi - Việt Dịch: Thích Quảng Độ
Xuất Bản: Viện Đại Học Vạn Hạnh 1969 - Phật Học Viện Quốc Tế, USA 1986

THIÊN THỨ BA
ÐẠI THỪA PHẬT GIÁO THỰC TIỄN LUẬN

CHƯƠNG THỨ HAI

QUAN NIỆM VỀ NGHIỆP CỦA PHẬT GIÁO VỚI TỰ DO Ý CHÍ

TIẾT THỨ NHẤT: 
PHẠM VI CỦA VẤN ÐỀ.

Trong khi trình bày tư tưởng của Phật Giáo Nguyên thủy, tôi đã cố gắng hết sức để nghiên cứu vấn đề này một cách rõ ràng về mặt lý luận mong đạt đến một kết luận thỏa mãn. Tựu trung, về vấn đề nghiệp, tôi đã đứng về phương diện tâm lý và luận lý mà nhận xét để nói đến nhiều vấn đề khác tiềm tàng trong đó; và cái kết quả của sự khảo sát đó, tôi đã trình bày ở mục "Nghiệp và luân hồi" trong cuốn "Nguyên thủy Phật Giáo Tư Tưởng luận", (thiên thứ hai, chương thứ tư). Lúc đó tôi tưởng thế đã là được rồi, nhưng giờ tôi tự cảm thấy vẫn chưa được thỏa mãn. Khi cố gắng thuyết minh về luật nhân quả của Nghiệp, tôi đã có ý kiến cho thuyết đó của Phật Giáo tương tự như Cực Ðoan Quyết Ðịnh Luật (Deter minism) và Tất Nhiên Luật (Necesssita-rianism). Dĩ nhiênlập trường của Phật không phải như thế. Vấn đề hiện tại nêu ra là: làm thế nào để có thể điều hòa giữa luật nhân quả của Nghiệp và ý chí tự do? Vì chưa đề cập đến lý luận đó, cho nên không khỏi có chỗ còn khuyết điểm. Ðể bổ cứu sự thiếu sót đó, tôi xin nêu ra ở đây dể giải thích, hy vọng các bậc cao minh phê phán và bổ khuyết.

Muốn nói đến vấn đề tự do ý chí trong Phật Giáo Nguyên thủy, trước hết cầnn phải thuyết minh các vấn đề sinh mệnh quan và tâm lý quan. Nhưng về những vấn đề này tôi đã thảo luận một cách rất tường tận trong Nguyên thủy Phật Giáo Tư Tưởng luận rồi. Cho nên ở đây, tôi chỉ xin đề cập đến những điểm cần thiết mà thôi.

Theo Phật thì hoạt động sinh mệnh của chúng ta lấy dục (tanha) làm trung tâm, nghĩa là lấy hữu dục (bhava tabha) làm cái hạch tâm rồi thành ái dục (kama tanha), phồn vinh dục (vibhava tanha) làm hiện tượng sinh mệnhhoạt động. Nhưng theo Phật thì cái gọi là dục ấy về bản chất, vốn không phải là sự xung động ý thức mà là vô thức. Cái gọi là vô minh chẳng qua chỉ là cái tên gọi được thêm vào cho sự xung động vô thức ấy mà thôi. Cái mà Schopenhauer gọi là "ý chí mù quáng" chính là cái đó. Nhưng cái "ý chí mù quáng vô minh" ấy, nếu nói là phát sinh thì có thể gồm những yếu tố tâm lý như Sắc (cái tác dụng lấy vật chất hình thành), Thụ (cảm tình), Tưởng (biểu tượng), Hành (ý chí) và Thức (ngộ tính, lý tính). Tựu trung, thức là yếu tố khai triển đầu tiên. Vô minhý chí sinh tồn, để đạt đến mục đích sinh tồn đó, cần phải có một cơ quan chỉ đạo, cho nên Thức là yếu tố phát sinh đầu tiên để làm nhiệm vụ ấy. Thuyết "Biểu tượng phát sinh từ ý chí" của Schopenhauer chính là cái đó.

Như vậy, hoạt động sinh mệnh tuy đã biến thành hoạt động tâm lý, nhưng theo Phật, trong sự hoạt động ấy không có một vật cố định gì làm trung tâm để làm cho sinh mệnhtâm lý hoạt động cả. Hết thảy là một dòng nước chảy liên tục, không một khắc nào ngừng ở một trạng thái giống nhau. Nhưng theo Phật, cái nguyên tắc quán thông làm cho những hoạt động đó liên tục, không gián đoạn, là sự liên tục của kinh nghiệm. Nếu nói theo Phật thì: những hoạt động của ta, bất luận là căn cứ vào thức hay vô thức, đều ghi lại trong hoạt động tâm lý của ta một tính cách, và cái tính cách đó sẽ là cái nhân tố quyết định cho những hoạt động tới. Như vậy, từ hành động tiến tới tính cách, do tính cách tiến tới hành động: đó là hiện tượng của những hoạt động sinh mệnh hoặc tâm lý. Á-Lý-Sĩ-Ða-Ðức (?) nói do hành động mà sinh tính cách, còn Schopenhauer thì lại nói do tính cách mà có hành động.

Nhưng Phật, vì thừa nhận kết quả của sự luân hồi vô hạn, thì cho rằng cả hai phương diện trên đều đúng cả. Những hoạt động ý chí của ta, tuy là một dòng nước luôn luôn biến hóa, nhưng nếu có một cái gì nhất quán giữ cho ta được đồng nhất, thì đó chính là cái tính liên tục trên đây vậy. Cái được gọi là Nghiệp trong Phật Giáo thật ra cũng là ám chỉ cái tính cách được khắc thêm bởi hành động đó, và mối quan hệ nhất định giữa hành động và tính cách, tính cách và hành động ấy được gọi là nhân quả. Nói theo đức Phật thì cái quan hệ nhân quả đó biểu hiện theo hai lớp: một về mặt hoạt động tâm lý và một về mặt hưởng thụ họa phúc. Nói một cách rõ ràng hơn thì người tạo nghiệp thiện một mặt làm cho mình trở thành người tốt, mặt khác chính mình cảm thấy là người có hạnh phúc; còn người làm việc ác thì kết quả trái ngược hẳn với điều trên đây. Mà chính nhữnh điều thiện, ác, họa, phúc đó là lý do khiến cho nhân loại trỏ thành thiên sai vạn biệt (xin xem Nguyên thủy Phật Giáo Tư Tưởng luận, thiên thứ hai, chương thứ tư, mục Nghiệp và Luân Hồi).

Khảo sát như thế, ta thấy kiếp này chúng ta mỗi người có một vận mệnh khác nhau, tuy do ở sự hoạt động của tâm lý, nhưng thật thì hết thảy đều do cái nghiệp lực từ bao nhiêu kiếp trước mà Phật gọi là vô-thủy kiếp nó xui như thế. Như vậy, có thể nói tất cả đều tùy theo sinh mệnhquyết định cả. Tại sao? Vì từ lúc sinh ra có tích tụ nhiều kinh nghiệm, những kinh nghiệm đó chẳng qua cũng chỉ là kết quả của cái tính cách thiên nhiên mà thôi. Nghĩa là khi người ta định thực một hành động gì đều từ hai loại động cơ trở lên , thì trong đó nên chọn động cơ nào? Sau khi khảo lự chắc chắn, người ta sẽ chọn lựa động cơ đầu tiên. Nếu căn cứ vào bề ngoài mà nói, ta thấy điều đó tựa hồ như tác dụng của ý chí tự do, nhưng trên thực tế, cái động cơ được lựa chọn đó rốt cuộc cũng nhất trí với tính cách tiên-thiên. Nghĩa là tính cách tiên-thiên có thể được coi là nguyên động lực vô thức quy định sự lựa chọn đó.

Như vậy, sự khảo sát của đức Phật cuối cùng cũng giống như thuyết "Túc-Tác-Nhân-Luân (Pubha_Katahetu_Vada)", hoàn toàn là người chủ trương định mệnh luận, không thừa nhậný chí tự do. Còn từ hiện tại đến vị lai thì như các bộ phái Vương Sơn Bộ (Rajagirika), Nghĩa-Thành-Bộ(Saddhatthika)...chủ trương: "hết thảy đều do ở nghiệp_Sabbamidam Kammatoti" (Katha Vatthu XVII, bà ), quy kết tất cả cho túc nghiệp và cho đó là chân lý cuả đức Phật.

Nhưng trên đây chỉ là những kiến giải đại lược thôi, chứ thật ra chưa phải là kết luận thỏa đáng của chính đức Phật. Vì người ta thấy trong các kinh điển có ghi lại những cuộc tranh luận của đức Phật đối với những thuyết cực đoan quyết định luận, Vận mệnh luận lưu hành ở thời bấy giờ. Chẳng hạn như trong bộ Trung A Hàm, quyển thứ ba, Ðộ Kinh (Anguttara IP. In 3), đưa ra thyết ba loại ngoại đạo để bài xích, mà trong đó ít ra đã có hai loại chủ trương Quyết định luận, còn loaị kia chủ trương cái gọi là thần ý luận (Isssranimmanahe tuvada), cho hết thảy đều do nơi thần ý . Do đó đã di đến kết luận là: tất cả hành động ý chí của ta đều có thần ý ngấm ngầm thao túng. Quyết định luận tức là Túc-Nghiệp luận (Pubha Kata heda vada), một sự khảo sát cho rằng tất cả đều do cái nghiệp ở kiếp trước. Ðức Phật không những không chấp nhận thần ý luận, mà đối với thuyết cho hết thảy dều do tiền nghiệp triệt để quyết định, cùng cực lực bài bác. Lại như trong kinh Sa Môn Quả (Samann Phala Sutta) nói đến phái lục sư , trong đó có Ma Ha Ly. Cù Xà La (Makkhali Gosala) chủ trương tất cả đều do tự nhiên quy định. Ðó là học phái không thừa nhận tự do ý chí của người . Ðức Phật cho đó là một chủ trương rất phi lý , bởi thế đã cực lực bài bác. Nhất là xem trong Tạp A Hàm bằng văn pãli (Samyutta Mikaya, IV, pp 230_231), có người tên là Thi Bà Ca (Moli yasivaca) chủ trương tất cả những kinh nghiệm khổ vui đều do túc nghiệp. Người này đem ý kiến đó hỏi phật; Phật trả lời đó là nhận định sai lầm. Vì sự khổ vui của người ta, tuy một phần nào đó do túc nghiệm, nhưng ngoài ra cũng còn có những nguyên nhân hậu thiên gây nên. Ðối với vấn đề này Ðức Phật đã tỏ thái độ minh bạch như thế, cho nên ta có thể nói đức phật quyết không phải chủ trương Tất nhiên luận và cố chấp vào quan niệm túc nghiệp. Hơn nữa , dù có chiếu theo chủ trương các bộ phái sau này, Tuy Vương Sơn Bộ, Nghĩa Thành Bộ, chủ trương Túc Mệnh luận , nhưng Thượng-Toạ-Bộ chính thống coi những bộ phái đó là dị giáo. Ðiều này ta thấy rõ ràng trong luận sự (Kattha Vatthu) , trong đó đã đưa ra những sự thật để bài bác ý kiến đó.

Lại như trong Dị Bộ Tôn Luân luận cũng nói: "trong số những người mạt chấp thuộc Ðại-Chúng-Bộ, có người chủ trương có những điều do chính mình làm, có những điều do người khác gây ra cho mình, có những điều vừa do chính mình vừa do người khác làm, có những điều do mọi nhân duyên sinh" Ðây là những câu nói rất khó hiểu từ xưa đến nay. Theo ý kiến của các nhà học Phật Trung Hoa, Nhật Bản, tuy cũng cho là khó hiểu nhưng theo sự lý giải của riêng tôi thì đó chẳng qua là muốn thuyết minh cái nguyên nhân của những sự khổ vui mà thôi. Nghĩa là những kinh nghiệm khổ vui của chúng ta không phải hoàn toàn do cái nghiệm của kiếp trước, mà là do kết quả của nhiều nguyên nhân kết hợp lại trong đó muốn chia ra mình, người, vừa mình vừa người và nhiều nhân duyên để mà thuyết minh. Tóm lại, nó không ngoài ý nghĩa câu giải đáp của đức Phật trả lời Thi-Bà-Ca ở trên, và thêm một chút phân tích để nói cho rõ rằng hơn mà thôi. Do đó, nếu đưa nó lập thành hình thức Ý-chí-luận thì hoạt động ý chí của ta một phần tuy do nghiệp ở kiếp trước và những sự kiện khác quy định, nhưng một phần cũng do chính mình phát động. Như vậy, đến một thời đại các bộ phái, trừ một vài bộ như Vương-Sơn-Bộ, Nghĩa-Thành-Bộ, còn tất cả đều chủ trương Tự-Do-Luận đến một trình độ nào đó, và cho rằng như thế mới đúng với chân ý của Phật.

Chính đức Phật thường nói: "Ta là người chủ trương Tác-dụng-luận (Ahamiryavado), Nỗ-lực-luận (Ahamviryavado). Chủ trương Tự-do-luận, ít ra cũng về mặt pháp tướng, là quy tắc phổ thông của Phật Giáo. Do đó, những người cho rằng Phật Giáo quy tất cả mọi sự cho túc nghiệp là đã phản lại giáo ý của Phật Giáo.

Nhưng ở đây vấn đề được đặt ra là: lý luận đó căn cứ vào đâu? Cùng với túc-nghiệp, thâu nạp cả thuyết Tự-do, nếu nhận xét một cách đơn giản thì đó là một thái độ trung đạo, nhưng nếu thiếu căn bản lý luận thì e chẳng qua là một sự thỏa hiệp mà thôi. Song nếu căn cứ vào những sự kiện khác mà suy định thì thuyết trung đạo của Ðức Phật quyết không phải chỉ là thỏa hiệp. Trong thuyết trung đạo đó là căn cứ hoàn bị rồi. Mà đức Phật-đối với bất cứ vấn đề nào cũng vậy -không coi trọng việc thuyết minh bằng lý luận suông. Vậy thì cái căn cứ của thuyết trên ở chỗ nào? Vấn đề này ngoài sự phát kiến toàn thể lập trường của đức Phật, không còn có cách nào khác.

Riêng phần tôi, khi đề xuất vấn đề này ở đây là có ý muốn thảo luận sơ qua về điểm này. Dĩ nhiên, xét cho cùng thì vấn đề này hoàn toàn là Nghiệp-Luận với Ý-chí tự-do. Nếu nói rõ hơn thì đó là vấn đề tím hiểu sự quan hệ giữa tính cách hay khí chất tiên thiên và hành động hậu thiên như thế nào? Cái phạm vi quan hệ của vấn đề tự do ý chí rất rộng, cho nên nếu hạn cục ở một phạm vi hay quan điểm nhất định thì không thể nào nắm được những chỗ chủ yếu.

TIẾT THỨ HAI: 
CĂN CỨ CỦA TÍNH CÁCHÝ CHÍ TỰ DO.

Ðể thuyết minh vấn đề này, cần phải nói qua lại hai tình hình của những hoạt động tâm lý.

Như đã nói trước kia, thep Phật thì bản chất của sinh mệnh tuy là ý chí vô thức, nhưng nếu liên hệ với phát động thì trong đó khai triển hoạt động tâm lýtrở thành ý thức.

Trong 12 nhân duyên, theo thứ tự, lấy vô minh (ý chí căn bản), hành (ý chí), thức (chủ quan), danh sắc (khách quan) để nói sự khai triển của hoạt động tâm lý, mà tạo ra một hình thức hoàn bị, thì như trên đã nói, lấy bốn yếu tố: thụ (cảm tính), tưởng (biểu tượng), hành (ý chí), thức (ngộ tính, lý tính) để quan sát thành lập: đó là tâm lý quan của Phật Giáo. Trong 4 yếu tố đó, hành (ý chí) được coi là tác dụng của tâm, do đó, đứng trên lập trường bản chất của tâm mà nói thì ý chí là phần căn bản nhất. Ðức Phật nói: "Hết thảy đều được thành lập bởi ý chí (hành)". Song đứng trên lập trường nhận thức của ý thức mà nói thì cái yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất lại là thức, là nguyên nhân làm cho tâm có một nguyên lý thống nhất. Nhưng nếu theo thứ tự khai triển mà nói thì đối với hành, tức là tiên thiên ý chí, thức là hoạt động hậu thiên. Theo ý nghĩa này thì thức tuy ở sau hành, nhưng nói theo giá trị tâm lý thì dĩ nhiên có thể nói thức chiếm một địa vị trọng yếu hơn hết các yếu tố khác. Chính đức Phật cũng đã nói một chỗ khác rằng tất cả đều do thức mà đượpc thành lập.

Vậy thì, tiến lên bước nữa mà nhận xét, cái quan hệ giữa hành và thức đó như thế nào? Có thể nói thức là người dẫn đạo của hành, trách nhiệm của thức là chỉ đường cho hành. Trong phạm vi đó, có thể nói thức chẳng qua là thừa hành ý muốn của ý chí tức là hành mà thôi. Song, ở đây ta cần chú ý là thức, đặc biệtnhận thức của lý tính, không phải hoàn toàn nô lệ cho ý chí đâu. Khi mà lý tính nhận thức phát đạt mạnh thì đối với ý chí nó lại cũng biểu hiện tác dụng nội ứng, nghĩa là tác dụng của lý trí ức chế ngã-chấp, ngã-dục là những sản phẩm của ý chí. Nói tóm lại, cái quan hệ giữa thức và hành là: nếu thức phát triển phát đạt ít thì hoạt động của ta bị ý chí bản năng, tức là tiên thiên khí chât, chi phối; còn nếu thức phát đạt nhiều, cao độ thì ngược lại chi phối bản năng và có thể đạt đến giải thoát. Nói cách khác, nếu thức phát triển đến cao độ thì có thể chi phối đến tính cách bản tính. Ngược lại, nếu thức không phát triển thì phải chịu sự chi phối của tính cách tiên thiên. Cái căn cứ của tự do ý chí trong Phật Giáo là ở đó. Nói một cách đơn giản thì: thức có tác dụng chi phối hành, tức là căn nguyên của ý chí tự do, vì hành động đúng theo nghiệp, tức là thuộc về tính khí tiên thiên, còn thức thì vì thuộc về những hoạt động hậu thiên cho nên có thể dựa vào đó mà chi phối hành. Ðối với nghiệp lực có thể nói thức có một trình độ giải thoát

TIẾT THỨ BA: 
TƯ TƯỞNG ÐẠI THỪA VỚI NHỮNG QUAN NIỆM Ở TRÊN.

Nếu tóm tắt tất cả những điểm vừa được trình bày ở trên, theo đức Phật khi ta sinh ra và do nghiệp lực của kiếp trước mà trong đó đã bao hàm một tính cách nhất định. Song cái thức của ta không phải chỉ chiếu theo cái tính cách đó mà dẫn đạo ý chí, mà trái lại, đối với nội bộ ý dục, để thích ứng với giá trị sinh sống, thức còn có thức chỉ thị ý chí.

Song khi đem sự quan hệ trên đây chiếu theo quan niệm về pháp của đức Phật mà khảo sát thì như thế nào? Ðây tức là Pháp môn Tứ Ðế. Ðứng trên lập trường Tứ Ðế mà nhận xét thì đây chính là thuyết minh quan hệ đó ở hai phương diện. Nghĩa là Khổ, Tập liên quan đến quy tắc sống còn, chính là thuyết minh phương diện vận mệnh tự nhiên. Trái lại, Diệt, Ðạo liên quan đến vấn đề tu dưỡng. Khổ, Tập bị luật nhân quả trói buộc cho nên không thể đạt được sự tự do triệt để. Diệt, Ðạo trái lại đả phá tự nhiên để thực hiện sự tự do đó. Chính vì lẽ đó mà đức Phật thường khuyến khích con người phải nỗ lực thoát ly các quy tắc sống còn để thực hiện sự tự do giải thoát về mặt tu đạo.

Nhưng vấn đề ở đây được đặt ra là: có phải đức Phật cho rằng kết quả tối cao của sự tu đạo là Niết-Bàn, một cảnh giới chỉ có thể thực hiện sau khi đã hoàn toàn đả phá sự sống còn hay không? Nói cho rõ hơn: Niết-Bàn chỉ có thể thực hiện sau khi chết? Bởi vì cái gọi là đả phá quy tắc sống còn thực ra không ngoài ý nghĩa tuyệt diệt sự tồn tại. Ðiểm này được giải thích là Vô-Dư Niết-Bàn và coi đó là lý tưởng tối cao. Nhưng đây chỉ là sự giải thích về bề mặt thôi, và có thể nói là sự giải thích của Tiểu Thừa. Còn theo đúng với chân lý của đức Phật thì cái cảnh giới lý tưởng đó có thể thực hiện ngay ở kiếp này, và có như thế mới hoàn thành được cái ý nghĩa tu dưỡng. Nếu nói theo sự tự nội chứng của đức Phật thì những hoạt động của Ngài từ 35 tuổi sau khi thành đạo đến 80 tuổi khi nhập Niết-Bàn, tuy tất cả đều là sống động, nhưng thật ra đó chỉ là cái tự thể của Niết-Bàn tối cao được hiện thực hóa mà thôi (xem nguyên thuỷ Phật Giáo Tư Tưởng luận, 449). Song đến đây một câu hỏi khác lại được đặt ra là: khi lấy sự thật ở trên đây để khảo sát quan niệm về pháp Tứ Ðế thì sẽ như thế nào? Sự thực trên đây vì ở ngay trong sự tồn tạithể hiện Niết-Bàn, cho nên phải xây dựng một quy tắc tồn tại (Diệt, Ðạo đế). Nếu không dự tưởng một quy tắc tồn tại thứ ba thì sự thực đó sẽ không có căn cứ.

Như vậy, đắc Phật có lập ra một quy tắc thứ ba để điều hòa giữa hai quy tắc Khổ Tập và Diệt Ðạo khổng? Nếu nhận xét theo bề ngoài thì giáo thuyết của Phật chưa đạt đến điểm đó. Mà muốn đạt đến điểm đó chính là Ðại Thừa giáo sau này, nhất là đến tư tưởng Chân-như quan của Khởi-Tín-luận thì điểm đó đã được hoàn thành. Ðặc tính của Chân-như của Khởi-Tín-luận, một mặt lấy nó làm căn cứ tồn tại, mặt khác lấy nó làm căn cứ Niết-Bàn tối cao, và coi đó là một. Ðến đây thì quy tắc Khổ Tập cũng như quy tắc Diệt Ðạo đều có thể nói đã được chỉ dương thống hợp.

Ðể thích ứng với quy tắc thống hợp đó mà trở thành cái tiêu chuẩn hay phương thức cụ thể hóa nó là tư tưởng Bất-Trụ Niết-Bàn của Bồ-Tát. Tuy lấy Niết-Bàn làm lý tưởng tối cao, nhưng vì thệ nguyện trền cầu giác ngộ, dưới hóa độ chúng sinh, cho nên thường đặt chân trên con đường Niết-Bàn vĩnh viễn, mà không lúc nào ở yên trong Niết-Bàn. Ðó chính thực là cái pháp tắc cụ thể hóa việc điều hoà giữa tồn tại và Niết-Bàn.
Ðại Thừa Phật Giáo tuy nói sinh tử tức Niết-Bàn, nhưng thật ra thì chỉ có cái đương thể trên đây vậy. Do đó, nếu biến vấn đề tất nhiên thành vấn đề tự do, rồi từ tự do mà lại đến tất nhiên cao hơn nữa, rồi lại đến tự do cao hơn nữa, cứ như thế mà tiến mãi, thật ra là một sự tu đạo hướng thượng vô cùng vô hạn. Câu nói "Tu đến Phật cũng không thôi" chính là ý ấy. Mà chỉ khi đến cảnh giới Bất-Trụ Niết-Bàn thì Tự-do luận của đức Phật mới có thể được coi là đã đạt đến trạng thái hoàn toàn.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12504)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10387)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12348)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11653)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28812)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12055)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13014)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11448)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12383)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17449)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53069)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35494)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21405)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10679)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19243)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12410)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26050)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13322)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14388)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16094)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13731)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16850)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17593)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13136)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12539)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11614)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11621)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14513)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20489)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18997)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19581)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18663)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12189)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12323)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13867)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15035)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15040)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13996)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15528)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11405)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17199)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14984)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20213)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13849)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11713)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15067)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13000)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22891)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14561)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11663)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13174)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16891)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18351)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11948)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11508)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15859)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12893)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18923)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18430)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant