Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Giới Thiệu, Lời Dịch Giả, Lời Người Biên Soạn

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6528)
Lời Giới Thiệu, Lời Dịch Giả, Lời Người Biên Soạn

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN
Đại Sư Khuy Cơ biên soạn – Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường
Biên soạn: Giáo sư Trương Đình Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2005

Lời Giới Thiệu

Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là bộ kinh ẩn chứa nhiều nghĩa lý sâu sắc, vượt tầm tư duysuy luận của đời thường. Để giúp mọi người có thể lãnh hội được triết lý cũng như tính thực tiển của nó, nhiều tác phẩm nghiên cứu, luận giải, trước tác rất công phu và có giá trị đã ra đời. Pháp Hoa Huyền Tán của Đại sư Khuy Cơ là một trong số ấy.

Ở Việt Nam, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc học và hành trì lời Phật dạy, vì đa số Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Với tâm nguyện giúp đỡ Phật tử Việt Nam thực hành đúng tôn chỉmục đích của Pháp Hoa, Cố Hòa thượng Thích Chân Thường, một bậc cao tăng thạc đức, đặc biệt dành nhiều thời giantâm lực để chuyển dịch tác phẩm Pháp Hoa Huyền Tán từ chữ Hán ra chữ Việt. Tuy nhiên, do điều kiệnhoàn cảnh khách quan, bản dịch này chưa có nhân duyên ấn hành sâu rộng.

Để hoàn thành tâm nguyện của bậc Tôn sư, hàng môn đồ pháp quyến của Cố Hoà thượng đã dày công biên tập, hiệu đínhkết hợp với Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam để in ấn tác phẩm nghiên cứugiá trị này.

Nay, chúng tôi kính giới thiệu đến chư Tăng Ni, Phật tử và các độc gỉa bộ Pháp Hoa Huyền Tán này.

Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam

 

Lời Dịch Giả

Kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh đại thừa thậm thâm vi diệu của Phật giáo. Đã có nhiều bộ kinh sớ giải như :

Pháp Hoa Huyền Nghĩa của ngài Pháp Vân đời Lương.

Pháp Hoa Tam Đại Bộ của ngài Thiên Thai Trí Khải Đại sư đời Tùy.

Pháp Hoa Nghĩa SớPháp Hoa Huyền LuậnPháp Hoa Lược Sớ – Pháp Hoa Dụ Ý – Pháp Hoa Luận Sớ của ngài Gia Tường Đại sư Cát Tạng đời Tùy.

Pháp Hoa Kinh Yếu Giải của ngài Giới Hoàn đời Tống.

Song đặc biệt vẫn là bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Huyền Tán của ngài Khuy CơTừ Ân Đại sư biên soạn đời Đường. Bộ kinh luận này gồm 10 quyển, mỗi quyển chia làm hai phần : Bản và Mạt. Nhằm giải thích ý nghĩa thậm thâm vi diệu của bộ kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa.

Trong phẩm Pháp Sư, đức Phật dạy rằng : “Này Dược Vương ! Kinh điển của ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, đương nói, sẽ nói mà trong đó Kinh Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu… Sau khi Như Lai diệt độ người nào có thể biên chép, thụ trì đọc tụng cúng dàng, vì người khác mà nói, thời được Như Lai lấy y trùm cho, lại được các đức Phật hiện tại ở phương khác hộ niệm cho. Người đó có sức tin lớn, sức trí nguyện và sức căn lành, phải biết người đó cùng Như Lai ở chung, được Như Lai lấy tay xoa đầu”.

Nhận thấy lợi ích lớn lao như vậy, tôi không quản tài sơ trí hẹp, thành tâm phiên dịch bộ kinh này ra nghĩa tiếng Việt với bản nguyện “Phục vụ chúng sinh tức cúng dàng chư Phật”. Trong khi phiên dịch chắc chắn có nhiều phần khiếm khuyết, kính mong các bậc cao minhthiện tri thức từ bi hoan hỷ phủ chính cho.

Champigny, mùa Phật đản năm Quý Dậu

Phật lịch 2537
Tỳ Kheo Chân Thường khể thủ

MẤY LỜI GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN

Bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Huyền Tán này là do Đại sư Khuy Cơ đời Đường biên soạn ra. Đại sư vốn tục danh là Uất Trì Hồng Đạo, người ở Trường An (nay thuộc thành phố Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc), xuất gia làm đệ tử ngài Huyền Trang (tục gọi là Đường Tam Tạng), theo học tông chỉ của Du Già, Duy Thức.

Ngài là bậc Cao Tăng, một vị đại Luận sư đã viết tất cả 100 bộ luận để giải thích kinh Phật, đặc biệtkinh điển đại thừa. Do vậy, Ngài được người đương thời gọi là Bách bản Luận sư. Trên đường vân du thuyết pháp, ngài thường dùng 3 cỗ xe, nên còn được gọi là Tam xa Pháp sư. Ngài đã từng theo ngài Huyền Trang dịch kinh tại Phiên Kinh viện ở chùa Từ Ân thuộc Trường An, ở đó ngài rất siêng trong công việc trước tác, dịch thuật.

Các tác phẩm của ngài từ đây truyền đi được gọi là Từ Ân giáo, sau được tôn là Pháp tướng – Hiển lý tông. Ngài đã viết sớ giải cho nhiều bộ kinh, như các Kinh Di Lặc Thượng Sinh, Diệu Pháp Liên Hoa v.v… Sớ giải của Kinh Pháp Hoa chính là bộ sách Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Huyền Tán này.

Sách này còn gọi là Pháp Hoa Huyền Tán, có chỗ còn gọi là Pháp Hoa Kinh Sớ, là một trong những bộ sớ giải quan trọng nhất, nổi tiếng nhất về Kinh Pháp Hoa. Mọi người học Phật điều biết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thường gọi tắc là Kinh Pháp Hoa, là một trong số kinh điển quan trọng nhất của Phật giáo đại thừa. Cho nên ở các nước theo Phật giáo đại thừa, ngoài việc phiên dịch kinh này ra ngôn ngữ bản quốc, các vị Cao Tăng thạc học đều viết các sách sớ giải về kinh này.

Để giải thích Kinh Pháp Hoa, ta thấy ngoài bộ Huyền Tán này, ở Trung Quốc còn có rất nhiều bộ luận sớ khác như Pháp Hoa Huyền Luận, Pháp Hoa Nghĩa Sớ của Cát Tạng đời Tùy, Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Triù Khải đời Tùy, Pháp Hoa Kinh Hội Nghĩa của Trí Húc đời Minh v.v….

Việt Nam ta, ngoài bản diễn Nôm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của ngài Huyền Cơ Thiện Giác, sách Pháp Hoa Quốc Ngữ Kinh của Lão Thiền Diệc Ngu ra, còn có một số sách sớ giải về Kinh Pháp Hoa như thời Minh Mạng triều Nguyễn có bộ Pháp Hoa Đề Cương của Minh Chính thuyền sư, hoặc như thời nay có Pháp Hoa Đề Cương Yếu Nghĩa của Hòa thượng Thích Từ Thông …

Các sách nói trên, mỗi bộ mỗi vẻ, đều nhằm giải thích Kinh Pháp Hoa, đều giúp cho việc tìm hiểu nghĩa lý sâu xa của bộ kinh này. Riêng bộ Pháp Hoa Huyền Tán của ngài Khuy Cơ (còn gọi là Đại sư Từ Ân) được coi là quan trọng bậc nhất, bởi lẽ sách này ngoài việc nêu ra các nghĩa lý tinh yếu của Kinh Pháp Hoa, còn giải thích cặn kẽ đến từng câu từng chữ của kinh này thông qua bản Hán dịch, đồng thời còn giải thích văn tự của bản Hán dịch. Pháp Hoa Huyền Tán còn chỉ ra một số từ dịch sai so với nguyên bản gốc Phạm. Có thể nói những ai muốn hiểu thấu nghĩa lý thâm diệu của Pháp Hoa, không thể không đọc sách này.

Sách này chia thành 10 quyển. Mỗi quyển lại chia thành hai phần : Bản và Mạt (trước, sau). Về bố cục, sách này đại thể có thể chia làm hai phần :

• Phần đầu tác giả giải thích một cách tổng quát về Kinh Pháp Hoa từ tên gọi, tông chỉ của bộ kinh này cho đến tính xác tín và vị trí của kinh này trong Phật giáo đại thừa.

• Phần sau tác giả giải thích kinh văn lần lượt từng phẩm theo thứ tự sắp xếp trong Kinh.

Khi giải thích mỗi phẩm, đầu tiên tác giả cũng nêu lên và giải quyết các vấn đềtính chất tổng quát của phẩm đó, theo phương pháptác giả đặt tên là :“Tam môn phân biệt”.

“Tam môn phân biệt” nhằm giải quyết 3 vấn đề :

1. Lai ý : dụng ý của phẩm đó, hoặc vì sao mà có phẩm đó.

2.Thích danh : giải thích tên gọi của phẩm đó, thông qua việc giải thích tên phẩm nêu lên nội dung cơ bản của phẩm đó.

3.Giải phương : giải đáp các thắc mắc quanh phẩm đó.

Sau phần này, tác giả lần lượt giải thích từng phần, từng đoạn, từng câu kinh văn trong phẩm, bằng cách đầu tiên dẫn kinh văn, sau đó giải thích. Khi dẫn kinh văn, để khỏi rườm rà tác giả chỉ nêu lên mấy chữ đầu và mấy chữ cuối của đoạn được dẫn, phần bị tỉnh lược ở giữa được thay bằng chữ “chí” (tới). Cách dẫn kinh cụ thể theo công thức sau : [-Kinh văn : “XXX” chí “XXX” ], X là chữ được dẫn.

Phần giải thích được mở đầu bằng : “Tán viết” (Tán rằng), cũng có khi được mở đầu bằng “Luận vân” (Luận rằng). Chính là qua phần giải thích này, mà người đọc có thể hiểu được ý nghĩa thâm diệu của Kinh Pháp Hoa.

Hơn nữa, qua phần giải thích này còn có thể giúp cho người tu Phật có được các tri thức phong phú về Phật giáo đại thừa, vì trong phần này tác giả đã viện dẫn rất nhiều kinh điển đại thừa.

Đối với người tu Phật, bộ Pháp Hoa Huyền Tán này có thể coi là bộ sách giáo khoa về Kinh Pháp Hoa, về Phật giáo đại thừa. Đối với người giảng kinh, có thể coi đây là bộ giáo án quý báu để giảng kinh này. Đối với người nghiên cứu, có thể coi đây là bộ sách tham khảo rất có giá trị. Tóm lại, nói theo ngôn ngữ của nhà Phật, bộ sách này đem lại lợi ích to lớn trong việc hoằng pháp lợi sinh.

Chính vì nhận thấy ý nghĩa hoằng pháp vô cùng to lớn của bộ Pháp Hoa Huyền Tán này, mà cố Hòa thượng Thích Chân Thường, một vị chân tu có nhiều công đức trong sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, người đã từng phiên dịch, tổ chức phiên dịch ấn tống nhiều bộ kinh điển nhà Phật, cũng là người sau khi đã làm nhiều công đức hoằng pháp tại quê hương lại cùng một số Cao Tăng Việt Nam khá,c đem Phật giáo sang truyền bá tại Châu Âu và là người xây dựng lên chùa Quan Âm ngay tại Paris, thủ đô nước Pháp.

Khi còn tại thế, Ngài đã từng có tâm nguyện tha thiết là muốn phiên dịch và ấn tống bộ sách này để lợi lạc quần sinh. tiếc thay công việc chưa xong thì người đã vội về cõi Phật. Nay các Pháp tử, Pháp tôn cùng Pháp quyến của người, tuân theo lời di huấn của người, đã nối tiếp và hoàn thành công việc to lớn khó khăn đang còn dang dở đó của người. Công quả ấy đã viên thành, người ở cõi Cực Lạc hẳn đã mãn nguyện.

Tôi là người từ lâu đã để tâm vào việc nghiêm cứu Phật học, đã từng được đọc sách này, nay lại được may mắn là người đầu tiên được đọc bản thảo bản dịch ra tiếng Việt. Tôi vô cùng tán thán công đức to lớn của cố Hòa thượng Chân Thường và những vị nối chí người bởi lẽ phiên dịch, tổ chức phiên dịch, ấn tống bộ sách này là một công việc vô cùng to lớn vô cùng khó khăn. (To lớn vì sách này rất đồ sộ, gần bằng nửa bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên, việc biên dịch in ấn phải tốn nhiều sức người, sức của. Khó khăn vì ngôn ngữ văn bản rất khó, phạm vi tri thức Phật họctác giả đề cập đến, hoặc viện dẫn từ Kinh Luật Luận rất rộng). Vậy mà nay công việc ấy đã được hoàn thành.

Tuy nhiên, tôi thiển nghĩ cũng như mọi công việc to lớn khác trong thiên hạ, việc phiên dịch in ấn bộ sách lớn như thế này dù đã hoàn thành song khó có thể nói là đã “Vạn vô nhất thất”. Những mong đọc giả đọc bản dịch sách này với thiện tâm tùy hỉ sẽ góp phần giúp cho bản dịch sách này được hoàn thiện hơn, bởi lẽ bất cứ một sự hoàn thành nào đó đều chỉ là tương đối, cũng như trong kinh Dịch, sau quẻ Ký tế áp cuối tượng trưng cho sự hoàn thành, đến quẻ Vị tế là quẻ cuối cùng tượng trưng cho sự vẫn chưa hoàn thành.

Hà nội, ngày 2 tháng 9 năm 1995
Giáo sư Trương Đình Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26647)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28244)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29379)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33279)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21760)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30642)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31258)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37149)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32300)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27124)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20613)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22245)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23982)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22864)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23203)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30407)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30075)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23125)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22318)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21782)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28209)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19252)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20142)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30898)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41504)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32715)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19116)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34011)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24965)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23680)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25310)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27766)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24994)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23821)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58685)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23204)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20888)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28153)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28908)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19207)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24589)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21423)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23843)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28606)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29401)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17637)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31013)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25328)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18954)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20130)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23945)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19036)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20154)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20035)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24820)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19398)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22568)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61815)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31131)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22112)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant