Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Giới Thiệu, Lời Dịch Giả, Lời Người Biên Soạn

26 Tháng Năm 201000:00(Xem: 6526)
Lời Giới Thiệu, Lời Dịch Giả, Lời Người Biên Soạn

KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN
Đại Sư Khuy Cơ biên soạn – Việt dịch: Cố Hòa thượng Thích Chân Thường
Biên soạn: Giáo sư Trương Đình Nguyên – Tu chỉnh và hiệu đính: Tỳ kheo: Thích Đồng Bổn
Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Hà Nội 2005

Lời Giới Thiệu

Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đây là bộ kinh ẩn chứa nhiều nghĩa lý sâu sắc, vượt tầm tư duysuy luận của đời thường. Để giúp mọi người có thể lãnh hội được triết lý cũng như tính thực tiển của nó, nhiều tác phẩm nghiên cứu, luận giải, trước tác rất công phu và có giá trị đã ra đời. Pháp Hoa Huyền Tán của Đại sư Khuy Cơ là một trong số ấy.

Ở Việt Nam, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa có một vị trí vô cùng quan trọng trong việc học và hành trì lời Phật dạy, vì đa số Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Với tâm nguyện giúp đỡ Phật tử Việt Nam thực hành đúng tôn chỉmục đích của Pháp Hoa, Cố Hòa thượng Thích Chân Thường, một bậc cao tăng thạc đức, đặc biệt dành nhiều thời giantâm lực để chuyển dịch tác phẩm Pháp Hoa Huyền Tán từ chữ Hán ra chữ Việt. Tuy nhiên, do điều kiệnhoàn cảnh khách quan, bản dịch này chưa có nhân duyên ấn hành sâu rộng.

Để hoàn thành tâm nguyện của bậc Tôn sư, hàng môn đồ pháp quyến của Cố Hoà thượng đã dày công biên tập, hiệu đínhkết hợp với Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam để in ấn tác phẩm nghiên cứugiá trị này.

Nay, chúng tôi kính giới thiệu đến chư Tăng Ni, Phật tử và các độc gỉa bộ Pháp Hoa Huyền Tán này.

Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam

 

Lời Dịch Giả

Kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh đại thừa thậm thâm vi diệu của Phật giáo. Đã có nhiều bộ kinh sớ giải như :

Pháp Hoa Huyền Nghĩa của ngài Pháp Vân đời Lương.

Pháp Hoa Tam Đại Bộ của ngài Thiên Thai Trí Khải Đại sư đời Tùy.

Pháp Hoa Nghĩa SớPháp Hoa Huyền LuậnPháp Hoa Lược Sớ – Pháp Hoa Dụ Ý – Pháp Hoa Luận Sớ của ngài Gia Tường Đại sư Cát Tạng đời Tùy.

Pháp Hoa Kinh Yếu Giải của ngài Giới Hoàn đời Tống.

Song đặc biệt vẫn là bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Huyền Tán của ngài Khuy CơTừ Ân Đại sư biên soạn đời Đường. Bộ kinh luận này gồm 10 quyển, mỗi quyển chia làm hai phần : Bản và Mạt. Nhằm giải thích ý nghĩa thậm thâm vi diệu của bộ kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa.

Trong phẩm Pháp Sư, đức Phật dạy rằng : “Này Dược Vương ! Kinh điển của ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, đương nói, sẽ nói mà trong đó Kinh Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu… Sau khi Như Lai diệt độ người nào có thể biên chép, thụ trì đọc tụng cúng dàng, vì người khác mà nói, thời được Như Lai lấy y trùm cho, lại được các đức Phật hiện tại ở phương khác hộ niệm cho. Người đó có sức tin lớn, sức trí nguyện và sức căn lành, phải biết người đó cùng Như Lai ở chung, được Như Lai lấy tay xoa đầu”.

Nhận thấy lợi ích lớn lao như vậy, tôi không quản tài sơ trí hẹp, thành tâm phiên dịch bộ kinh này ra nghĩa tiếng Việt với bản nguyện “Phục vụ chúng sinh tức cúng dàng chư Phật”. Trong khi phiên dịch chắc chắn có nhiều phần khiếm khuyết, kính mong các bậc cao minhthiện tri thức từ bi hoan hỷ phủ chính cho.

Champigny, mùa Phật đản năm Quý Dậu

Phật lịch 2537
Tỳ Kheo Chân Thường khể thủ

MẤY LỜI GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ TÁC PHẨM
KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN

Bộ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Huyền Tán này là do Đại sư Khuy Cơ đời Đường biên soạn ra. Đại sư vốn tục danh là Uất Trì Hồng Đạo, người ở Trường An (nay thuộc thành phố Tây An, Thiểm Tây, Trung Quốc), xuất gia làm đệ tử ngài Huyền Trang (tục gọi là Đường Tam Tạng), theo học tông chỉ của Du Già, Duy Thức.

Ngài là bậc Cao Tăng, một vị đại Luận sư đã viết tất cả 100 bộ luận để giải thích kinh Phật, đặc biệtkinh điển đại thừa. Do vậy, Ngài được người đương thời gọi là Bách bản Luận sư. Trên đường vân du thuyết pháp, ngài thường dùng 3 cỗ xe, nên còn được gọi là Tam xa Pháp sư. Ngài đã từng theo ngài Huyền Trang dịch kinh tại Phiên Kinh viện ở chùa Từ Ân thuộc Trường An, ở đó ngài rất siêng trong công việc trước tác, dịch thuật.

Các tác phẩm của ngài từ đây truyền đi được gọi là Từ Ân giáo, sau được tôn là Pháp tướng – Hiển lý tông. Ngài đã viết sớ giải cho nhiều bộ kinh, như các Kinh Di Lặc Thượng Sinh, Diệu Pháp Liên Hoa v.v… Sớ giải của Kinh Pháp Hoa chính là bộ sách Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Huyền Tán này.

Sách này còn gọi là Pháp Hoa Huyền Tán, có chỗ còn gọi là Pháp Hoa Kinh Sớ, là một trong những bộ sớ giải quan trọng nhất, nổi tiếng nhất về Kinh Pháp Hoa. Mọi người học Phật điều biết Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, thường gọi tắc là Kinh Pháp Hoa, là một trong số kinh điển quan trọng nhất của Phật giáo đại thừa. Cho nên ở các nước theo Phật giáo đại thừa, ngoài việc phiên dịch kinh này ra ngôn ngữ bản quốc, các vị Cao Tăng thạc học đều viết các sách sớ giải về kinh này.

Để giải thích Kinh Pháp Hoa, ta thấy ngoài bộ Huyền Tán này, ở Trung Quốc còn có rất nhiều bộ luận sớ khác như Pháp Hoa Huyền Luận, Pháp Hoa Nghĩa Sớ của Cát Tạng đời Tùy, Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Triù Khải đời Tùy, Pháp Hoa Kinh Hội Nghĩa của Trí Húc đời Minh v.v….

Việt Nam ta, ngoài bản diễn Nôm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của ngài Huyền Cơ Thiện Giác, sách Pháp Hoa Quốc Ngữ Kinh của Lão Thiền Diệc Ngu ra, còn có một số sách sớ giải về Kinh Pháp Hoa như thời Minh Mạng triều Nguyễn có bộ Pháp Hoa Đề Cương của Minh Chính thuyền sư, hoặc như thời nay có Pháp Hoa Đề Cương Yếu Nghĩa của Hòa thượng Thích Từ Thông …

Các sách nói trên, mỗi bộ mỗi vẻ, đều nhằm giải thích Kinh Pháp Hoa, đều giúp cho việc tìm hiểu nghĩa lý sâu xa của bộ kinh này. Riêng bộ Pháp Hoa Huyền Tán của ngài Khuy Cơ (còn gọi là Đại sư Từ Ân) được coi là quan trọng bậc nhất, bởi lẽ sách này ngoài việc nêu ra các nghĩa lý tinh yếu của Kinh Pháp Hoa, còn giải thích cặn kẽ đến từng câu từng chữ của kinh này thông qua bản Hán dịch, đồng thời còn giải thích văn tự của bản Hán dịch. Pháp Hoa Huyền Tán còn chỉ ra một số từ dịch sai so với nguyên bản gốc Phạm. Có thể nói những ai muốn hiểu thấu nghĩa lý thâm diệu của Pháp Hoa, không thể không đọc sách này.

Sách này chia thành 10 quyển. Mỗi quyển lại chia thành hai phần : Bản và Mạt (trước, sau). Về bố cục, sách này đại thể có thể chia làm hai phần :

• Phần đầu tác giả giải thích một cách tổng quát về Kinh Pháp Hoa từ tên gọi, tông chỉ của bộ kinh này cho đến tính xác tín và vị trí của kinh này trong Phật giáo đại thừa.

• Phần sau tác giả giải thích kinh văn lần lượt từng phẩm theo thứ tự sắp xếp trong Kinh.

Khi giải thích mỗi phẩm, đầu tiên tác giả cũng nêu lên và giải quyết các vấn đềtính chất tổng quát của phẩm đó, theo phương pháptác giả đặt tên là :“Tam môn phân biệt”.

“Tam môn phân biệt” nhằm giải quyết 3 vấn đề :

1. Lai ý : dụng ý của phẩm đó, hoặc vì sao mà có phẩm đó.

2.Thích danh : giải thích tên gọi của phẩm đó, thông qua việc giải thích tên phẩm nêu lên nội dung cơ bản của phẩm đó.

3.Giải phương : giải đáp các thắc mắc quanh phẩm đó.

Sau phần này, tác giả lần lượt giải thích từng phần, từng đoạn, từng câu kinh văn trong phẩm, bằng cách đầu tiên dẫn kinh văn, sau đó giải thích. Khi dẫn kinh văn, để khỏi rườm rà tác giả chỉ nêu lên mấy chữ đầu và mấy chữ cuối của đoạn được dẫn, phần bị tỉnh lược ở giữa được thay bằng chữ “chí” (tới). Cách dẫn kinh cụ thể theo công thức sau : [-Kinh văn : “XXX” chí “XXX” ], X là chữ được dẫn.

Phần giải thích được mở đầu bằng : “Tán viết” (Tán rằng), cũng có khi được mở đầu bằng “Luận vân” (Luận rằng). Chính là qua phần giải thích này, mà người đọc có thể hiểu được ý nghĩa thâm diệu của Kinh Pháp Hoa.

Hơn nữa, qua phần giải thích này còn có thể giúp cho người tu Phật có được các tri thức phong phú về Phật giáo đại thừa, vì trong phần này tác giả đã viện dẫn rất nhiều kinh điển đại thừa.

Đối với người tu Phật, bộ Pháp Hoa Huyền Tán này có thể coi là bộ sách giáo khoa về Kinh Pháp Hoa, về Phật giáo đại thừa. Đối với người giảng kinh, có thể coi đây là bộ giáo án quý báu để giảng kinh này. Đối với người nghiên cứu, có thể coi đây là bộ sách tham khảo rất có giá trị. Tóm lại, nói theo ngôn ngữ của nhà Phật, bộ sách này đem lại lợi ích to lớn trong việc hoằng pháp lợi sinh.

Chính vì nhận thấy ý nghĩa hoằng pháp vô cùng to lớn của bộ Pháp Hoa Huyền Tán này, mà cố Hòa thượng Thích Chân Thường, một vị chân tu có nhiều công đức trong sự nghiệp hoằng dương Phật pháp, người đã từng phiên dịch, tổ chức phiên dịch ấn tống nhiều bộ kinh điển nhà Phật, cũng là người sau khi đã làm nhiều công đức hoằng pháp tại quê hương lại cùng một số Cao Tăng Việt Nam khá,c đem Phật giáo sang truyền bá tại Châu Âu và là người xây dựng lên chùa Quan Âm ngay tại Paris, thủ đô nước Pháp.

Khi còn tại thế, Ngài đã từng có tâm nguyện tha thiết là muốn phiên dịch và ấn tống bộ sách này để lợi lạc quần sinh. tiếc thay công việc chưa xong thì người đã vội về cõi Phật. Nay các Pháp tử, Pháp tôn cùng Pháp quyến của người, tuân theo lời di huấn của người, đã nối tiếp và hoàn thành công việc to lớn khó khăn đang còn dang dở đó của người. Công quả ấy đã viên thành, người ở cõi Cực Lạc hẳn đã mãn nguyện.

Tôi là người từ lâu đã để tâm vào việc nghiêm cứu Phật học, đã từng được đọc sách này, nay lại được may mắn là người đầu tiên được đọc bản thảo bản dịch ra tiếng Việt. Tôi vô cùng tán thán công đức to lớn của cố Hòa thượng Chân Thường và những vị nối chí người bởi lẽ phiên dịch, tổ chức phiên dịch, ấn tống bộ sách này là một công việc vô cùng to lớn vô cùng khó khăn. (To lớn vì sách này rất đồ sộ, gần bằng nửa bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên, việc biên dịch in ấn phải tốn nhiều sức người, sức của. Khó khăn vì ngôn ngữ văn bản rất khó, phạm vi tri thức Phật họctác giả đề cập đến, hoặc viện dẫn từ Kinh Luật Luận rất rộng). Vậy mà nay công việc ấy đã được hoàn thành.

Tuy nhiên, tôi thiển nghĩ cũng như mọi công việc to lớn khác trong thiên hạ, việc phiên dịch in ấn bộ sách lớn như thế này dù đã hoàn thành song khó có thể nói là đã “Vạn vô nhất thất”. Những mong đọc giả đọc bản dịch sách này với thiện tâm tùy hỉ sẽ góp phần giúp cho bản dịch sách này được hoàn thiện hơn, bởi lẽ bất cứ một sự hoàn thành nào đó đều chỉ là tương đối, cũng như trong kinh Dịch, sau quẻ Ký tế áp cuối tượng trưng cho sự hoàn thành, đến quẻ Vị tế là quẻ cuối cùng tượng trưng cho sự vẫn chưa hoàn thành.

Hà nội, ngày 2 tháng 9 năm 1995
Giáo sư Trương Đình Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29892)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27174)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21766)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22227)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23602)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20430)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20053)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21947)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24745)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18986)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24739)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30972)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23984)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27762)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26510)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21307)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23219)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38125)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18799)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18435)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19956)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19041)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23147)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23868)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22789)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22907)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29567)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20636)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18707)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15846)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18851)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19658)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20150)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19951)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18117)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22927)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34165)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16417)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16916)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39243)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26062)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20097)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18849)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24055)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29120)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22900)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30949)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21006)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26850)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20677)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26262)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23320)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19817)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24671)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30031)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20219)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20401)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15144)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15829)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23877)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant