Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Thứ 6

02 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7231)
Bài Thứ 6

KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải

Hoà Thượng Thích Thiện Hoa

 

Bài Thứ 6 
PHẦN CHÁNH TÔN (tt) 

26. Phật nói công đức thọ trì kinh Kim Cang Bát Nhã 
27. Ông Tu Bồ Đề bùi ngùi cảm động rơi nước mắt 
28. Người nghe kinh này sanh lòng tin, người ấy được công đức thứ nhứt 
29. Người có hạt giống Bát Nhã mới tin và hiểu được kinh này 
30. Phật xác nhận lời nói của ông Tu Bồ Đề là phải 
31. Phật phá cái chấp: "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la Mật" 
32. Phật phá cái chấp: "Nhẫn nhục Ba La Mật" 
33. Phật nói tiền thân của Ngài là một vị tiên nhơn tu nhẫn nhục Ba la Mật 
34. Bồ Tát phát tâm Bồ Đề phải xa lìa tất cả các vọng chấp 
35. Bồ Tát bố thí hay làm càc việc lợi ích chúng sanh đều không nên chấp tướng 
36. Như Lai nói thật không nói dối 
37. Chấp tướng bố thí như vào nhà tối, vô tướng bố thí như đi ban ngày.

26. PHẬT NÓI CÔNG ĐỨC THỌ TRÌ KINH KIM CANG BÁT NHÃ

Phật day: "Tu Bồ Đề !nếu có người tự đem thân mạng mình, nhiều như cát sông Hằng để bố thí, thì người đó phước đức nhiều lắm. Nhưng nếu có người thọ trì đoạc tụng hay giảng dạy kinh này, trọn quyển hay nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì phước đức người này nhiều hơn người trước". 

LƯỢC GIẢI 

Kinh này rất quý báulợi ích vô cùng, nên phật đã nhiều lần tán thán công đức, khuyên người thọ trì và giảng dạy cho người. Từ trước đến đây đã năm lần nói về công đức của kinh này. 

Đoạn trước (19) nói, người dùng ngoại tài là 7 món báu, nhiều như số cát sông hằng đem bố thí, phước đức của người này tuy nhiều, nhưng không bằng người thọ trì và giảng dạy kinh Kim Cang Bát Nhã phước đức lại nhiều hơn. 

Đoạn này nói, người đem nội tài là thân mạng của mình ra bố thí; chỉ bố thí một thân mạng phước đức đã nhiều và ít ai làm được, huống chi là bố thí thân mạng của mình nhiều như số cát sông Hằng, thì phước đức biết là bao nhiêu ! 

Nhưng nếu co ùngười thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này từ một quyển hay nữa quyển cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, thì người này phước đức nhiều hơn người trước. 

Bố thí thân mạng, tuy ít người làm được, nhưng phước đức vẫn còn ở trong vòng hữu vihữu lậu. Người thọ trì đọc tụng hoặc giảng dạy kinh này, thì mình và người đều được ngộ nhập "Kim Cang Bát Nhã" và sẽ được thành Phật; rồi trở lại hoá độ vô số chúng sanh, nên phước đức của người này, thuộc về vô lậu vô vi, nhiều hơn người trước. 

Nói về công đức thọ trì kinh này, 

Ngài Trí Giả Đại sư có làm bài tụng: 

Nguyên văn (dịch âm): 

Hằng sa số thậm đa 
Sa số cánh nan lương 
Cử sa tề thất bảo 
Năng trì bố thí tương 
Hữu tướng giai vi huyễn 
Đồ ngôn Trí huệ cường 
Nhược luận tứ cú đệ 
Thử phước mạt vi tường 

Dịch nghĩa: 

Kể sông Hằng đã quá 
Số cát lại nhiệu hơn 
Chứa báu nhiều như thế 
Thí tài số biết bao 
Chấp mê theo giả tướng 
Dẫu đặng phước huệ cao 
Sánh với bốn câu kệ 
Phước kia có chút nào 

ĐẠI Ý BÀI TỤNG 

Chỉ đếm sông Hằng đã không hết, huống chi là đếm số cát trong vô số sông Hằng. Người đem của báu nhiều bằng số cát trong vô số sông Hằng ra bố thí, phước đức tuy nhiều, nhưng thuộc hữu vi, hữu lậu

Không bằng người thọ trì hoặc giảng dạy kinh này chừng bốn câu, thì phước đức nhiều hơn người trước. 

*** 

27. ÔNG TU BỔ ĐỀ BÙI NGÙI CẢM ĐỘNG RƠI NƯỚC MẮT 

Sau khi thấy Phật nhiều lần ân cần, nhắc nhở khuyên dạy, ông Tu Bồ Đề nghe hiểu được nghĩa lý thâm thuý của kinh này, nên lúc bấy giờ, ông cảm động bùi ngùi và sa nước mắt !... 

Ông Tu Bồ Đề bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn ! Con tuy đặng huệ nhãn đã lâu, nhưng từng được nghe Phật nói kinh điển, nghĩa lý cao siêu huyền diệu, quí hoá như thế này !". 

LƯỢC GIẢI 

Chúng ta mỗi khi bị xúc cảm một việc gì quá mạnh, hoặc buồn hay vui, đều có rưng nước mắt. Ông Tu Bồ Đề vì thấy Phật đã nhiều lần ân cần nhắc nhở thọ trì và khuyên dạy những nghĩa lý thâm thuý cao siêu của kinh này, mà từ hồi nào đến giờ ông chưa từng được nghe, nên ông cảm động rơi nước mắt. 

*** 

28. NGƯỜI NGHE KINH NÀY SANH LÒNG TIN NGƯỜI ẤY ĐẶNG CÔNG ĐỨC THỨ NHỨT

Ông Tu Bồ Đề thưa Phật: "Bạch Thế Tôn ! nếu có người nghe kinh này, sanh lòng tin trong sạch, ngộ được thật tướng (tánh Bát Nhã) thì người ấy sẽ đặng thành tựu công đức hy hữu thứ nhứt. 

Bạch Thế Tôn ! Như Lai nói "thật tướng" tức là không phải "thật tướng", chỉ tạm gọi là "thật tướng". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này ông Tu Bồ Đề nói: người nghe kinh này mà ngộ được "thật tướng Bát Nhã", thì người ấy đặng công đức hi hữu. Và ông phá luôn cái chấp "thật tướng". 

Người có cai khiếu (theo Duy thức học gọi là hạt giống) âm nhạc, nghe âm nhạc mới biết hay. Người có cái khiếu thi thơ, nghe thi tjhơ mới biết thích. Cũng thế, người c1 cái khiếu hay hạt giống Bát Nhã, nghe đến kinh Bát Nhã mới sanh lòng tinngộ nhập được "Thật tướng Bát Nhã". Bởi thế nên người này công đức vô lượng

Vừa nói đến "thật tướng", ông Tu Bồ Đề sợ người chấp "thật tướng", nên ông liền phá luôn cái chấp ấy, bằng cách dẫn lời Phật dạy: "Như Lai nói thật tướng, tức là không phải thật tướng, chỉ tạm gọi là thật tướng". 

GIẢI DANH TỪ 

THẬT TƯỚNG. Phật nói: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng", phàm cái gì có hình tướng đều là hư vọng). 

Vậy thì cái không hình tướng mới là chơn thật. Kinh chép: "Vô tướng chi tướng, cố danh thật tướng", (cái tướng mà không có hình tướng mới gọi là thật tướng). 

Căn cứ theo lời giải thích này, thì "thật tướng" là không còn các vọng tướng và vọng chấp, tức là "Bát Nhã chơn không". 

*** 

29. NGƯỜI CÓ HẠT GIỐNG BÁT NHÃ MỚI TIN VÀ HIỂU ĐƯỢC KINH NÀY 

Ông Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Hiện nay con nghe đặng kinh này, hiểu được, tin được và thọ trì, chẳng lấy làm khó. Khi Đức Như Lai nhật diệt, 500 năm về sau, nếu có người nghe kinh này, mà được hiểu ngộ, tin theothọ trì, thì người đó mới là hy hữu

Tại sao vậy? Vì người này không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanhthọ giả

Bạch thế Tôn ! Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng là ngã, nhơn, chúng sanhthọ giả. Tại sao vậy?_ Vì phảo xa lìa tất cả các chấp tướng, mới gọi là chư Phật". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này tiếp với đoạn văn trên, nói người có hạt giống Trí huệ Bát Nhã, phá trừ được bốn tướng, mới tin và hiểu được kinh này. 

Khi Phật còn tại thế, chúng sanh căn tánh Đại thừa rất nhiều, nên nghe kinh này hiểu và tin không khó. Đến sau khi Phật nhập diệt, chúng sanh căn tánh Đại thừa rất ít, nên nghe hiểu và tin được kinh này rất khó. Vì người nghe phải không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanhthọ giả, mới hiểu được kinh Kim Cang Bát Nhã này. 

Nói đến bốn tướng, ông Tu Bồ Đề sợ người chấp thật có bốn tướng, nên ông liền bác rắng: "Nói bốn tướng, không phải thật có bốn tướng, chỉ giả gọi bốn tướng mà thôi". 

Kết luận, ông nói rằng: "Phải rời tất cả các vọng chấp, vọng tướng, ngộ nhập Kim Cang Bát Nhã, mới gọi là chư Phật". 

*** 

Ngài Cảo Thiền sư, ngộ được câu: "Lìa tất cả các vọng chấp, mới là chư Phật", nên có làm hai bài tụng rằng: 

Nguyên văn (dịch âm): 

Thân khẩu ý thanh tịnh 
Thị danh Phật xuất thế 
Thân khẩu ý bất tịnh 
Thị danh Phật diệt độ 
Tức tâm thị Phật vô dư Pháp 
Mê giả đa ư tâm ngoại cầu 
Nhứt niệm quách nhiên qui bổn tế 
Hoàn như tẩy khước thượng thuyền đầu 

Dịch nghĩa: 

Thân, khẩu ý thanh tịnh 
Đó là Phật xuất thế
Thân, khẩu ý bất tịnh 
Đó là Phật nhập diệt
Tức tâm là Phật, Phật tại tâm 
Kẻ mê rong ruổi, ngoại tâm cầu 
Nhứt niệm giác ngộ về đến Phật 
Dễ như rửa chân bước lên thuyền. 

ĐẠI Ý HAI BÀI TỤNG 

Ba nghiệp: Thân, miệng và ý đều thanh tịnh, đó là Phật xuất thế. Trái lại, ba nghiệp không thanh tịnh tức là Phật nhập diệt. Phật tức tâm, tâm tức Phật. Người mê muội không biết, lại tìm Phật ngoài tâm. Nếu trong nhứt niệm mà tâm giác ngộ thì tức thành Phật; rất dễ như người rửa chân bước lên thuyền. 

30. PHẬT XÁC NHẬN LỜI NÓI CỦA ÔNG TU BỔ ĐỀ LÀ PHẢI 

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Đúng như vậy. Nếu có người nghe kinh này mà không nghi ngờ hay kinh sợ, thì người này rất là hy hữu". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này vẫn còn tiếp với hai đoạn văn trên, Phật xác nhận lời nói của ông Tu Bồ Đề là phải: Người có hạt giống Kim Cang Bát Nhã, không chấp các tướng mới hiểu và tin được kinh này 

*** 

31. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: "BÁT NHÃ LÀ ĐỆ NHỨT BA LA MẬT" 

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói Bát Nhãđệ nhứt Ba la mật, không phải Bát Nhãđệ nhứt Ba la mật, thế mới thật Bát Nhãđệ nhứt Ba la mật". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này Phật phá cái chấp "Bát Nhã là pháp Ba la mật thứ nhứt". Đây là lần thứ hai, Phật phá cái chấp Bát Nhã Ba la mật (lần thứ nhứt ở đoạn 22). 

Trong 6 pháp Lục độ, tức là 6 pháp Ba la mật, thì Trí huệ Bát Nhã là bao trùm tất cả, nên Phật nói: "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật" 

Nhưng, nếu người còn chấp mình đặng "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật"(chấp pháp) thì không phải thật đặng "Bát Nhã là đệ nhứt Ba la mật" nữa, vì còn chấp ngã (minh đặng) chấp pháp (Ba la mật). Bởi thế nên Phật dạy tiếp: "Không còn thấy (chấp) mình đặng Bát Nhãđệ nhứt Ba la mật, thì mới thật đặng Bát Nhãđệ nhứt Ba la mật". 

GIẢI DANH TỪ 

Bát Nhã: (đã giải ở trước, đề mục kinh) 

Ba la mật: (đã giải ở trước, đề mục kinh) 

*** 

32. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHẪN NHỤC BA LA MẬT"

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói người Nhẫn nhục Ba la mật (rốt ráo) mà không thấy mình Nhẫn nhục Ba la mật, như thế mới thật là Nhẫn nhục Ba la mật". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này Phật phá cái chấp "Người tu Nhẫn nhục Ba la mật, mà còn chấp mình đặng Nhẫn nhục Ba la mật". 

Nếu hành giả tu hạnh nhẫn nhục rốt ráo (Ba la mật) mà còn chấp minh tu hạnh nhẫn nhục rốt ráo, tức nhiên hành giả còn chấp chơn (người làm nhục) chấp ngã (ta bị nhục) thì chưa phải là nhẫn nhục rốt ráo. Hành giả phải lìa tất cả vọng chấp: nhơn, ngã, bỉ, thử v.v...nhập Kim Cang Bát Nhã, mà tu pháp nhẫn nhục thì pháp nhẫn nhục đó mới hoàn toàn rốt ráo, gọi là nhẫn nhục Ba la mật

*** 

33. PHẬT NÓI TIỀN THÂN NGÀI LÀ MỘT VỊ TIÊN NHƠN TU HẠNH NHẪN NHỤC BA LA MẬT

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! về quá khứ, ta làm vị Tiên nhơn tu hạnh nhẫn nhục đến 500 đời. Bị vua Ca Lợi cắt xẻo thân thể từng đoạn, nhưng ta không sân hận; Vì ta không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh và thọ giả". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn này tiếp theo đoạn trên (32) nói về việc tu hạnh nhẫn nhục Ba la mật. Muốn giải thích rõ ràng: thế nào là "nhẫn nhục rốt ráo" (nhẫn nhục Ba la mật), Phật dẫn bằng chứng điển hình, là tiền thân Ngài làm vị Tiên nhơn tu hạnh Nhẫn nhục. Bị vua Ca Lợi cắt xẻi thân thể ra từng mảnh, nhưng Ngài không hề sân hận. Vì ngài không còn chấp bốn tướng: ngã, nhơn v.v...nên mới đặng nhẫn nhục rốt ráo (nhẫn nhục Ba la mật). 

Sách chép, một hôm vua Ca Lợi dẫn cung phi mỹ nữ lên núi để yến tiệc. Sau buổi yến tiệc say sưa, vua nằm nghỉ, các cung phi lén vua đi dạo núi. 

Qua một đồi khác, thấy một vị Tiên nhơn ngồi tu dưới một gốc cây đại thọ, các cung phi rủ nhau đến chiêm bái

Sau khi thức dậy, không thấ cung phi, vua liền đi tìm. Đến một đồi núi, thấy các cung phi đang ngồi xoay quanh hỏi đạo vị Tiên nhơn dưới một gốc cây cổ thụ, vua tức giận hỏi: 

Người là ai mà dám quyến rủ cung phi mỹ nữ của ta? 

Tôi là Tiên nhơn tu hạnh Nhẫn nhục rốt ráo

Có thật không? 

Thật, tôi tu Nhẫn nhục rốt ráo (Ba la mật). Vua liền rút gươm xẻo mũi, lóc tai, chặt tay v.v...vị Tiên nhơn, mà không thấy vị Tiên nhơn có chút gì phản ứng hay sân hận v.v... 

Sau cơn nóng giận, vua hối hận và hỏi: 

Có lẽ vì thế lực của nhà Vua nên Tiên nhơn Nhẫn nhục, không dám chống lại, chứ trong tâm làm sao khỏi buồn giận? 

Tiên nhơn thề rằng: Nếu tôi không thiệt tu Nhẫn nhục rốt ráo, trong tâm còn chút giận hờn, thì tôi chết luôn theo với tay chân bị cắt xẻo; trái lại, nếu tôi thật tu Nhẫn nhục rốt ráo, tâm không sân hận thì tay chân của tôi bị cắt, đều hoàn y nguyên trở lại như xưa. 

Lời thệ của Tiên nhơn vừa dứt thì mũi, tai, thân thể của Tiên nhơn đều hoàn lại như trước. Vua hết sức ăn năn sám hối tội lỗi của mình và thỉnh cầu Tiên nhơn tha thư.ù 

Tiên nhơn đã không hờn giận, lại còn phát nguyện: "sau khi đắc đạo ta sẽ độ người trước". 

*** 

34. BỔ TÁT PHÁT TÂM BỔ ĐỀ PHẢI XA LÌA TẤT CẢ CÁC VỌNG CHẤP 

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Bồ Tát phát tâm Bồ Đề, phải xa lìa tất cả các chấp tướng. Bồ Tát không nên sanh tâm trụ chấp nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trầnpháp trần v.v... 

Nói tóm lại, Bồ Tát đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả. Nếu Bồ Tát tân còn trụ chấp một nơi nào, thì không phải thật an trụ chơn tâm". 

LƯỢC GIẢI 

Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 17), Phật dạy các vị Bồ Tát đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào. 

Tâm Bồ Đềtâm Phật (xem đoạn 2). Bồ Tát phát tâm Bồ Đề, phải xa lìa tất cả các vô minh vọng chấp: Không chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, thọ giả, không chấp sáu căn, sáu trần và sáu thức v.v...Nói chung là không chấp ngã, chấp pháp

Khi các vọng chấp hết rồi, thì tâm Bồ Đề hay tánh Bát Nhã v.v...hiện ra. Đó là "Hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm". 

Nếu tâm còn có chỗ trụ chấp, tức là tâm còn vọng động; tâm còn vọng động thì trụ nơi điên đảo, chứ không phải an trụ chơn tâm hay tánh Bát Nhã. Bởi thế nên Phật dạy: "Nếu Bồ Tát tâm còn trụ chấp một nơi nào thì không phải thật an trụ chơn tâm

Ngài Xuyên Thiền sư làm bài tụng, nói về việc không trụ chấp nơi sắc, thinh, hương, v.v... 

Nguyên văn (dịch âm) 

Kiến sắc phi can sắc 
Văn thinh bất thị thinh 
Sắc thinh vô ngại xứ 
Thân đáo pháp vương thành 

Dịch nghĩa: 

Thấy sắc không mê sắc 
Nghe tiếng chẳng nhiễm tiếng 
Sắc tiếng đều không ngại 
Mới đến pháp vương thành 

ĐẠI Ý BÀI TỤNG 

Trong khi sáu giác quan tiếp xúc với sáu trần cảnh, mà không khởi vọng niệm phân biệt, nhiễm ô mê hoặc(trụ chấp) nơi trần cảnh, thì hành giả sẽ được vào cảnh giới Phật (thành pháp vương). 

***

35. PHẬT DẠY BỔ TÁT BỐ THÍ HAY LÀM CÁC VIỆC LỢI ÍCH CHÚNG SANH ĐỀU KHÔNG NÊN CHẤP TƯỚNG

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Bồ Tát khi bố thí hay làm các việc lợi ích cho tất cả chúng sanh, không nên sanh tâm trụ chấp các tướng (mình bố thí, người thọ thí, vật bố thí

Tu Bồ Đề ! Như Lai nói các tướng không phải thật (các pháp) chỉ giả gọi các tướng. Như Lai nói chúng sanh, không phải thật chúng sanh, chỉ giả gọi chúng sanh". 

LƯỢC GIẢI 

Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt về đoạn 4), Phật dạy các vị Bồ Tát bố thí hay làm các việc lợi ích chúng sanh, đều không nên chấp tướng (xem đoạn 4 ở trước). 

Hành giả khi làm lợi ích các chúng sanh, mà tâm còn trụ chấp các tướng, nghiã là còn thấy mình bố thí, người thọ thí và vật bố thí, tất nhiên hành giả còn chấp ngã (mính, người) chấp pháp (vật bố thí), thì hành giả chỉ được phước hữu lậu nhiễm ô, nên không phải là bố thí Ba la mật (bố thí rốt ráo). 

Bởi thế nên Phật dạy, các vị Bồ Tát, khi bố thí hay làm lợi ích cho các chúng sanh, phải nhập Kim Cang Bát Nhã mà làm; nghĩa là không có chấp các tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả thì được phước đức vô lậu thanh tịnh. Bố thí như vậy, mới phải là bố thí Ba la mật (bố thí rốt ráo). 

Đoạn trước nói về Nhẫn nhục, đoạn này nói về bố thí. Muốn giúp cho qui vị Phật tử hiểu thêm và để thật hành, thế nào là "Nhẫn nhục rốt ráo" và thế nào là "bố thí rốt ráo", chúng tôi xin nói thêm một thí dụ như sau. 

Hành giả muốn đặng Nhẫn nhục Ba la mật hay bố thí Ba la mật, thì phải quán chúng sanh và mình đồng một bản thể, mới không thấy ta có bố thíchúng sanh thọ thí hay người làm nhục và ta thọ nhục. 

Thí dụ như tay mặt với tay trái, đồng thấy chung một thân, nên khi tay mặt lỡ làm tổn thương tay trí, (đóng đinh trợt tay) tay trái không giận. Vì tay trái tự nhận mình cùng với tay mặt đồng một thân, nên tay trái không thấy dó tay mặt làm nhục và mình bị nhục. Nhẫn nhục như thế mới là Nhẫn nhục rốt ráo (nhẫn nhục Ba la mật). 

Trái lại, tay mặt lo lấy bông gòn và thuốc để băng cho tay trái, nhưng nó không kiêu hảnh, vì tay mặt cũng tự nhận mình cùng với tay trái đồng một thân, nên nó không thấy mình (tay mặt)là người ban ơn và tay trái là kẻ thọ ơn. Bố thí như thế, mới là bố thí rốt ráo (Bố thí Ba la mật). 

*** 

36. NHƯ LAI NÓI THẬT, KHÔNG NÓI DỐI

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói thật, nói chơn chánh, không nói dối, không nói sai khác. Như Laiđắc pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư". 

LƯỢC GIẢI 

Đến thời Bát Nhã, thì Phật phá hất các vọng chấp từ lâu của chúng sanh, để chúng sanh tiến lên một bực cao hơn nữa. Vì thế nên phần lý thuyết cũng như phần tinh thần của thời kinh Bát Nhã, rất lạ lùng hơn các thời thuyết pháp khác. 

Sợ chúng sanh nghi ngờ lời Phật nói không chơn thật, khi nói vầy, khi nói khác, thya đổi không chừng, nên Phật gọi ông Tu Bồ Đề dạy rằng: "Như Lai nói thật, nói chơn chánh, không nói dối, không nói sai khác". 

Đức Như Lai được đạo Bồ Đề, nhưng nếu chấp đạo Bồ Đề này là hư hay thật thì không phải là Bồ Đề. Vì thế nên Phật dạy: "Như Lai có đắc pháp, nhưng pháp ấy không thật không hư". 

*** 

37. TRỤ TƯỚNG BỐ THÍ NHƯ VÀO NHÀ TỐI, VÔ TƯỚNG BỐ THÍ NHƯ ĐI BAN NGÀY

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Nếu Bồ Tát bố thí mà tâm còn trụ chấp nơi pháp bố thí, thì như người vào nhà tối, không thấy gì cả. Trái lại, nếu Bồ Tát bố thítâm không trụ chấp nơi pháp bố thí, thì cũng như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sángcủa mặt nhựt chíêu soi, được thấy tất cả mọi vật". 

LƯỢC GIẢI 

Đây là lần thấy thứ ba (lần thứ nhứt và hai ở đoạn 4 và 35), Phật dạy Bồ Tát bố thí không nên chấp tướng bố thí

Người bố thí, nếu còn chấp tướng, nghĩa là còn thấy ta là người ban ơn, kia là kẻ thọ ơn, đó là vật bố thí, thì bị mây vô minh ngã, pháp che mờ Trí huệ Bát Nhã, nên Phật thí dụ: "như người đi vào nhà tối không thấy gì cả". 

Trái lại, nếu bố thíkhông chấp tướng, trong kinh gọi là "tam luân không tịch"; nghĩa là không thấy mình bố thí, (ban ơn) người thọ thí (thọ ơn) và vật bố thí (xem thí du tay mặt bó tay trái ở đoạn 35) thì mây vô minh ngã, pháp đều hết, nên mặt trời Trí huệ Bát Nhã hiện ra, chiếu soi khắp tất cả pháp. Bởi thế nên Phật nói: "Như người có mắt sáng tỏ, lại nhờ ánh sáng của mặt nhựt chiếu soi, được thấy mọi vật".

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10396)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12358)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11660)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28816)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12058)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13018)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11452)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12385)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17455)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53085)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35498)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12424)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13323)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14391)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13734)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16855)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13140)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12542)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11628)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19591)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12192)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12330)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15041)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15047)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11407)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17203)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14986)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20224)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15074)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13005)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22896)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11670)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11509)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15860)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12894)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18927)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18433)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant