Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 4 Trường Thọ

06 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7040)
Phẩm 4  Trường Thọ

ĐẠI BÁT NIẾT BÀN KINH TRỰC CHỈ ĐỀ CƯƠNG
Từ phẩm I đến phẩm XXIII
Pháp Sư Thích Từ Thông

 

PHẨM THỨ TƯ

TRƯỜNG THỌ

 * Phật dạy: Nầy các thầy Tỳ kheo ! Đối với Như Lai, "Tất cả các pháp bổn tánh không tịch". Đó là kết quả của sự tu hành trải qua vô lượng kiếp mà nên. Tuy nhiên, trên đường hóa độ chúng sinh, không phải vậy. Về giới luật, thiền địnhtrí tuệ học, các thầy còn có chỗ nghi ngờ chưa quyết thì đem ra hỏi, Như Lai sẽ giải thích cho.

 Các Tỳ kheo thành phần A La Hán, tự thấy trí tuệ nhỏ nhoi, không đủ trình độ đặt vấn đề hỏi Phật. Mọi ngườiý nghĩ: Pháp Phật thậm thâm vi mật, truyền dạy cho Bồ tát, thì mới bảo tồn kiên cố, mới có khả năng truyền bá ở đời, lợi lạc chúng sinh.

 * Bấy giờ có vị Bồ tát họ Đại Ca Diếp, giòng Bà la môn, từ chỗ ngồi đứng dậy trịch vai áo bên hữu, cung kính nhiễu Phật, rồi quỳ gối chấp tay hỏi Phật qua bài kệ:

Làm sao được trường thọ ?
Thân Kim Cang không hoại ?
Nên tạo nhân duyên
Để được sức kiên cố ?
Làm gì ở kinh nầy 
Để được đến bờ kia ?
Xin Phật mở kho tàng
chúng sinh dạy rõ !
Làm sao được rộng lớn
Làm y chỉ chúng sinh
Làm sao biết thiên ma
Để làm chúng khiếp sợ ?
Lời Phật, lời Ma Ba tuần
Làm sao phân biệt biết ?
Thế nào các Bồ tát
Thấy được tánh khó thấy ?

Nghĩa mãn tự bán tự
Phải hiểu như thế nào ?
Làm sao ở đời trược ác
Chẳng ô nhiễm như hoa sen
Thế nào ở trong phiền não
phiền não chẳng nhiễm ?
Như y sư trị bệnh
Không bị bệnh truyền lây ?
Con nay thỉnh Như Lai
Vì các hàng Bồ tát
Diễn nói pháp thậm thâm
Thế nào tất cả pháp
Đều có tánh an lạc
Cúi xin đấng Thế Tôn
Phân biệt dạy chúng con.

 Phật khen Ca Diếp Bồ tát. Lời hỏi của ông có giá trị như người được Nhất thiết trí. Lúc Như Lai mới thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác dưới cội bồ đề cũng có vô số Bồ tát đến hỏi ta như vậy. 

 Này Ca Diếp Bồ tát ! Hãy lóng nghe ! Như Lai sẽ vì ông mà nói về nghiệp nhân trường thọ của một Bồ tát.

 Phàm có hạnh nghiệp, có thể làm nhân cho quả Vô Thượng Bồ đề thì thành tâm nghe kỹ và lãnh thọ giáo nghĩa đó. Tự mình lãnh thọ rồi truyền dạy cho người khác để nhiều người được lợi lạc. Do tu tập hạnh nghiệp ấy mà Như Lai được quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Nay lại vì mọi người nói rộng ý nghĩa ấy.

 Muốn thực hiện sâu rộng nghiệp nhân trường thọ, Bồ tát phải: 

Phát tâm đại từ, đại bi, đại hỉ, đại xả, hộ niệm tất cả chúng sinh, như thương con ruột của mình. 

Dạy cho tu tập pháp ngũ giới, thập thiện

Những chúng sinh bị khổ ba đường ác, cứu độ cho được ra. 

Giải thoát cho người chưa giải thoát.

Người chưa giác ngộ dạy cho pháp tu tỉnh thức. 

 Do tu các nghiệp nhân như vậy mà Bồ tát được "thọ mạng lâu dài", trí tuệ tự tại

 Ca Diếp Bồ tát bạch Phật: Theo con nghĩ, Thế Tôn không nên nói Bồ tát đối với tất cả chúng sinh tâm bình đẳng xem đồng như con. Vì trong Phật pháp có người phá giới, có kẻ phạm tội nghịch, có người hủy báng chánh pháp.....với hạng người như vậy làm sao xem đồng như con ?

 Phật dạy: Như Lai đối với chúng sinh ấy xem đồng như con, như La Hầu La. Cho đến người hủy báng chánh pháp, hàng nhứt xiển đề, hoặc những kẻ tà kiến....Như Lai đều thương xót như con. Như Lai không giống các quốc vương, bầy tôi phạm pháp cứ theo tội mà tru lục.

 Ca Diếp ! Nên biết, Như Lai là người ban bố vô úy bình đẳng cho chúng sinh. Như Lai phóng ra một, hai, hoặc năm tia sáng, kẻ nào gặp đều xa lìa tất cả điều ác. Sau khi Như Lai nhập Niết bàn, nơi nào có Tỳ kheo trì giới, đầy đủ oai nghi hộ trì chánh pháp, thấy được hoại pháp thì quở trách trừng trị. Vị Tỳ kheo ấy được phước báo vô lượng. Đó chính là đệ tử của Như Lai, đích thực là Thanh Văn. Nếu thấy lỗi mà bỏ qua, vị Tỳ kheo nầy là người góp phần làm bại hoại Phật pháp.

 Ca Diếp Bồ tát bạch Phật: "Như lời Phật vừa dạy, e là không bình đẳng, xem tất cả chúng sinh như con. Bạch Thế Tôn ! Giả sử có người cầm dao với ý đồ hảm hại Phật, lại có người đem nước chiên đàn thoa thân Phật. Nếu sử dụng tâm bình đẳng lẽ ra hai người đều phải được xem là người tốt, cớ sao lại bảo rằng phải trừng trị kẻ phạm luật nghi ? Nếu trừng trị kẻ phạm luật nghi thì lời dạy kia có lỗi."

 Phật nói: Như Quốc vương có bốn người con trai khôi ngô, thông minh sáng suốt, đem giao cho giáo sư dạy dỗ và dặn rằng: Thầy gắng dạy cho chúng được toàn vẹn tài đức. Nếu chúng ngỗ nghịch, thầy phải nghiêm trị, dầu ba đứa bị đòn chết, còn một đứa được nên, nhà vua cũng vui lòng.

 Này Ca Diếp ! Cha và thầy của các trẻ có phải tội ácsát sanh chăng?

 Ca Diếp Bồ tát thưa: "Bạch Thế Tôn ! Không. Vì lòng thương, muốn cho các trẻ được nên, chớ chẳng phải ác tâm. Dạy dỗ như thế được phước vô lượng". 

 Phật nói: "Cũng vậy, Như Lai đối với kẻ phạm pháp xem đồng như con. Nay Như Lai đem chánh pháp vô thượng phó chúc cho vua, đại thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Các vua quan và bốn bộ chúng phải nên khuyên răn, khích lệ những người phát tâm tu học, khiến được tăng thượng giới, định, tuệ và nên nghiêm khắc dạy bảo những người lười biếng, phá giới, hủy hoại chánh pháp, lơ là đối với pháp tam vô lậu học".

 Này Ca Diếp ! Như vậy các vua quan, bốn bộ chúng có mắc tội chăng 

 Ca Diếp Bồ tát thưa: "Bạch Thế Tôn ! Không".

 Phật nói: "Các vua quan và bốn bộ chúng còn không tội, huống là Như Lai.

 Này Ca Diếp ! Như Lai khéo tu đức bình đẳng, xem các chúng sinh đồng là con. Tu như vậy gọi là Bồ tát tu tâm bình đẳng, với các chúng sinh xem đồng là con. Bồ tát tu tập hạnh nghiệp bình đẳng nầy được thọ mạng lâu dài, khéo biết những việc đời trước.

 Ca Diếp Bồ tát bạch Phật: "Như Lai chẳng nên dạy như thế ! Bồ tát tu tâm từ bình đẳng lẽ ra không đoản thọ, được thọ mạng lâu dài, biết được túc mạng thường ở nơi đời. Nay do duyên cớ gì, Thế Tôn thọ mạng rất ngắn, chẳng khác người thế tục trần gian ? Hay Như Lai oán ghét chi chúng sinh ? Ngày trước Như Lai làm nghiệp ác gì, mà mắc báo đoản thọ sống không đầy trăm tuổi ?"

 Phật bảo Ca Diếp Bồ tát: "Nay duyên cớ gì ông nói lời thô trước Như Lai như thế ? Như Lai trường thọ hơn hết trong các tuổi thọ. Như Lai được pháp thường trụ hơn hết trong các pháp thường trụ." Các ông cần phải học !"

 Ca Diếp Bồ tát bạch Phật: "Đức Như Lai thọ mạng dài lâu như thế nào ?"

 Phật nói: Ví như tám con sông: sông Hằng, sông Diêm Ma La, sông Tát La, sông A Lợi La, sông Ma Ha, sông Tân Đầu, sông Bác Xoa, sông Tát Da. Tám con sông này cùng các sông nhỏ đều chảy vào biển lớn.

 Cũng vậy, tất cả con sông thọ mạng của người, của trời đất, của hư không, đều vào trong biển thọ mạng của Như Lai. Vì vậy nên thọ mạng của Như Lai vô lượng, vô cùng.

 Ví như ao A Nậu chảy ra thành bốn con sông lớn. Cũng vậy, ở trong các pháp thường trụ, Như Laiđệ nhứt.

 Phật dạy: Ca Diếp ! Đối với Như Lai, ông không nên có quan niệm diệt tận. Hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni,Ưu bà tắc, Ưu bà di vẫn có thể sống lâu trăm tuổi hoặc hơn trăm tuổi. Hàng ngoại đạo có được ngũ thông, hạng luyện đơn, chế thuốc tu tiên, họ vẫn có thể kéo dài mạng sống ngàn năm, hoặc vạn năm tùy ý. Như Lai có sức tự tại, Như Lai là vua của các pháp, há lại không thể trụ thế một kiếp hoặc hơn một kiếp hay sao ?

 Ca Diếp Bồ tát bạch Phật: "Nếu thọ mạng của Như Lai dài lâu như vậy, Như Lai ở nơi đời hoặc một kiếp hoặc ít hơn để thường tuyên diệu pháp, như tuôn mưa lớn".

 Như Laipháp thường trụ chẳng biến đổi, thân Như Lai là thân biến hóa chẳng phải thân tạp thực. Vì độ chúng sinh nên thị hiện có sinh có diệt. Vì độ chúng sinh nên thị hiện bỏ thân mà nhập Niết bàn.

 Ông nên biết, Phật là pháp thường trụ, không biến đổi. Ở trong đệ nhất nghĩa này, các ông phải nên siêng năng tinh tấn nhất tâm tu học. Mình đã tu học và vì người khác mà giảng nói.

 Ca Diếp Bồ tát thưa: "Có sự sai khác gì giữa xuất thế pháp cùng thế pháp ? Như lời Phật dạy: Phật là pháp thường trụ, không biến đổi. Người đời cũng nói Phạm Thiên là thường, Tự Tại Thiên là thường. Họ cũng nói Ngã là thường, Tánh là thường và vi trần cũng là thường, tất cả đều không biến đổi.

 Nếu nói Như Laipháp thường trụ, cớ sao Như Lai chẳng thường hiện nơi đời ? Có khác gì nghĩa thường của thế gian ? Vì Phạm Thiên nhẫn đến vi trần cũng chẳng thường hiện ở nơi đời.

 Phật bảo Ca Diếp: Phàm phu dầu có pháp lành nhưng đều là pháp thừa của Như Lai. Sau khi Thế Tôn nhập Niết bàn, họ trộm pháp lành thừa của Như Lai, hoặc giới, hoặc định, hoặc tuệ nhưng không có phương tiện nên chẳng giải quyết được, họ không thể được thường giới, thường định, thường tuệ và giải thoát. Vì mong được giải thoát, hạng phàm phu nói Ngã, hoặc Phạm Thiên, Tự Tại Thiên, Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng chính là Niết bàn, kỳ thật họ chẳng được giải thoát Niết bàn

 Hạng phàm phu có chút ít phạm hạnh, cúng dường cha mẹ nên được sanh lên trời hưởng một ít an lạc. Mà thật chẳng biết được giới, định, tuệ, quy y tam bảo rồi do chẳng biết mà nói thường, lạc, ngã, tịnh. Dầu nói thường, lạc, ngã, tịnh mà thật ra họ chẳng biết. Vì thế nên sau khi ra đời, Như Laichúng sinh diễn nói thường, lạc, ngã, tịnh.

 Này Ca Diếp ! Như Lai là thường, là pháp không biến đổi. Chẳng đồng hạng với người ngu trong đời gọi Phạm Thiên.v .v...là pháp thường còn. Gọi là pháp thường trụ phải là Như Lai chớ chẳng phải pháp nào khác. Ca Diếp ! Ông phải hiểu thân Như Lai là như vậy.

 Này Ca Diếp ! Mọi người nên thường xuyên tu học hai chữ: Phật là THƯỜNG TRỤ.

 Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tu hai chữ nầy, người ấy đi theo đường Phật đi, đến chỗ Phật đến.

 Này Ca Diếp ! Nghĩa Niết bàn chính là pháp tánh mà chư Phật nói.

 Ca Diếp Bồ tát bạch Phật: "Pháp tánh của chư Phật nghĩa thế nào ? Mong đức Như Lai giải rộng cho. Theo con hiểu: Pháp tánh có nghĩa là phải xả bỏ sắc thân. Đã xả bỏ sắc thân tức là vô sở hữu, nếu vô sở hữu thì thân không còn. Thân nếu còn tại sao lại nói thân có pháp tánh ? Thân có pháp tánh sao thân lại còn ?

 Phật dạy: "Ca Diếp ! Ông chẳng nên nói diệt mới là pháp tánh. Pháp tánh không có diệt.

 Ví như Vô Tưởng Thiên thành tựu sắc ấm mà không có sắc tướng. Chẳng nên hỏi các ông trời ấy sung sướng hưởng vui thế nào ? Nghĩ tưởng những gì ?

 Này Ca Diếp ! Cảnh giới của Như Lai chẳng phải chỗ biết của Thanh Văn, Duyên Giác. Chẳng nên nói thân của Như Laipháp diệt. Ông không nên nghĩ Như Lai ở chỗ nào, đi chỗ nào, thấy, vui, chỗ nào ? Pháp thân của Phật, các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải điều mà các ông biết được.

 Này Ca Diếp ! Nên tu tập Phật, Pháp và Tăng mà quán tưởng là thường. Ba pháp ấy không có dị tưởng, không vô thường tưởng, không biến dị tưởng. Đó là tu đúng chánh giáo. Nếu ở nơi ba pháp, tu dị tưởng, phải biết rằng pháp tam quy thanh tịnh của những người này bị lệch lạc chánh pháp, cấm giới của họ chẳng viên mãn. Họ chẳng chứng được quả Thanh Văn, Duyên Giác Bồ đề. Nếu có thể ở nơi ba pháp bất khả tư nghì này, tu thường tưởng thì có chỗ quy y.

 Này Ca Diếp ! Ví như nhơn nơi cây mà có bóng cây. Cũng vậy, vì Như Laipháp thường trụ nên có chỗ quy y. Nếu cho rằng Như Laivô thường thì Như Lai không phải là chỗ quy y. Nếu cho rằng Như Laivô thường thì Như Lai không phải là chỗ quy y của người trời.

 Ca Diếp Bồ tát bạch Phật: Bạch Thế Tôn ! Ví như trong tối có cây mà không có bóng !"

 Phật nói: "Ca Diếp! Ông không nên nói có cây mà không có bóng, chỉ vì nhục nhãn nhìn thô thiển nên không thấy đó thôi.

 Cũng vậy, tánh Như Laithường trụ, không biến đổi. Người không có con mắt trí tuệ không thấy được, như trong bóng tối không thấy bóng cây. Cũng vậy, sau khi Phật nhập diệt, hạng phàm phu nói Như Laivô thường.

 Nếu cho rằng Phật khác với Pháp và Tăng, chẳng thành chỗ của ba pháp quy y. Như cha mẹ của ông mỗi mỗi sai khác, nên thành vô thường".

 Ca Diếp Bồ tát lại bạch Phật: "Từ nay, con sẽ đem ba pháp thường trụ: Phật, Pháp, Tăng để khai ngộ cho cha mẹ, nhẫn đến cha mẹ trong bảy đời đều khiến phụng trì. 

 Bạch Thế Tôn ! Nay con phải học Phật, Pháp, Tăng bất khả tư nghì. Tự mình học rồi lại sẽ vì người mà giảng giải những nghĩa ấy. Người nào không tin tưởng không nhận được, vì họ đã tu pháp vô thường từ lâu, con sẽ làm sương móc, mưa giá cho hạng người này".

 Phật khen Ca Diếp Bồ tát: "Lành thay ! Lành thay ! Nay ông khéo có thể hộ trì chánh pháp. Hộ pháp như vậy là không khinh khi người. Do nơi nghiệp nhơn không khinh khi người mà được quả báo trường thọ.

TRỰC CHỈ

 Phẩm kinh nầy có nhan đề TRƯỜNG THỌ. Phật dạy phẩm TRƯỜNG THỌ, nhưng không phải là dạy cho con người dưỡng sinh, tập luyện cách nào đó để được sống lâu. Bởi vì giáo lý của đạo Phật nhận thức về con người, cái "tối linh ư vạn vật" nói chung, "tối linh ư động vật" nói riêng, không phải ở nơi sự sống dài hay sống ngắn, ở nơi ít tuổi hay cao tuổi và sự so sánh ít năm hay nhiều năm.

 Những cụm từ đó, đối với đệ tử Phật, có học đạo, hành đạochứng đạo, nó không có giá trị cao siêu hay một sự vui mừng, hãnh diện gì hết. Cho nên, người Phật tử với vấn đề tử sinh, sinh tử là chuyện "tùy thuận", không cầu nguyện, không khấn vái van xin mà cũng không cần có ý chối bỏ hay trốn chạy sự sống.

 Tiêu chỉ mà đạo Phật đặt ra đối với con người là:

Sống một đời sống đáng sống
Sống có an lạchạnh phúc
Sống có tự tạikhinh an
Sống có phước đứctrí tuệ
Sống có Bồ đề, Niết bàn hữu thượng và vô thượng.

 Hiện thực được những tiêu chỉ đó là đạt mục đích yêu cầu của đời sống đáng sống của con người.

 Đền Ngọc Sơn bên hồ Hoàn Kiếm, thủ đô Hà Nội có xác "con rùa thuộc" to tướng, dài hơn một thước tây. Nhà sinh vật học cho biết con rùa ấy sống 500 năm tuổi, tính theo tuổi thọ con người "trường thọ" 500 tuổi, thế mà chẳng thấy ai gọi dù là một tiếng "Ông rùa" giữa cảnh ngựa xe như nước, áo quần như nêm của cố đô Thăng Long nghìn năm văn vật !

TRƯỜNG THỌ đức Phật dạy cho Bồ tát Ca Diếp là sự trường thọ với không gian, với thời gian. Là Bồ tát phải tu học cái nhân trường thọ. Phải phát tâm đại từ, đại bi, mở rộng lòng đại hỉ, đại xả. Phải vun bồi tự giác cho mình, phải huấn đạo tha giác cho chúng sinh. Đem giới, định, tuệ mà truyền trao cho mọi người. Dẫn dụ mọi người quay về với Phật, với Pháp, với Tăng. Gieo trong lòng mọi người hạt giống giác ngộ, giải thoát. Đó là việc làm của Bồ tát hạnh. Việc làm đó phù hợp chân lý. Tu như vậy gọi là "xứng tánh khởi tu". Làm như vậy gọi là "tùy thuận pháp tánh". Đó chính là Bồ tát vun bồi, xây dựng cái nhân "trường thọ" để rồi thọ dụng cái quả "trường thọ" vĩnh cửu với không gian vô tận, thời gian vô cùng.

TRƯỜNG THỌđức Phật dạy: Là Bồ tát phải tu học rằng: Hiện tượng vạn pháp xưa nay bản tánh của nó RỖNG RANG và VẮNG LẶNG, không có lẫn lộn chất liệu nhiễm ô.

TRƯỜNG THỌBồ tát phải tu học là: Thọ mạng của Như Lai trường thọ hơn hết trong tất cả trường thọ. Sự trường thọ của vạn pháp ví như sông ngòi. Trường thọ của thọ mạng Như Lai ví như tất cả đại dương hợp lại.

TRƯỜNG THỌ Bồ tát Ca Diếp phải học là: Phật thường trụ, Pháp thường trụ, Tăng thường trụ. Vì tánh của tam bảo là tánh thanh tịnh bản nhiên vốn không có khởi điểm và cũng không có cuối cùng.

TRƯỜNG THỌBồ tát phải tu học là: Không được hiểu thân Như Lai là thân tạp thực, có ăn uống, có đi đứng, nằm ngồi. Thân có đi, đứng nằm ngồi, có ăn uống, chỉ là ứng thân Phật vì lợi ích chúng sinhthị hiện.

Điều quan trọng cuối cùng, đức Phật dạy Ca Diếp Bồ tát, rằng: Muốn hiểu Phật, phải tu học PHÁP THÂN NHƯ LAI. Tu học PHÁP THÂN NHƯ LAI mới hiểu được thọ lượng của Như Lai. Hiểu được thọ lượng của Như Lai mới hiểu được giá trị thế nào là "trường thọ" của cái từ TRƯỜNG THỌNhư Lai đinh ninh dạy bảo.

 TRƯỜNG THỌNhư Lai dạy ở đây phải được hiểu là: THƯỜNG TRỤ. Phật thường trụ, Pháp thường trụ, Tăng thường trụ, Pháp thân thường trụ. Như Lai thường trụ. Niết bàn thường trụ. Tam bảo thập phương thường trụ. Bởi vì chân lý của vạn pháp trong vũ trụ LOẠN KHỞI LOẠN DIỆT như hoa đốm trong hư không. Mà hư không thì không có sinh, không có diệt !

 Đừng đau đớn gì hết ! Đừng xót thương gì hết ! Như Lai sắp nhập Niết bàn mà tỏ vẻ xót thương đau đớn là những người đệ tử chỉ có nhục nhãn và nhìn Như Lai bằng cái nhục nhãn khốn khổ của chính mình. Là Bồ tát hãy sử dụng tuệ nhãnchiêm ngưỡng Như Lai.

"Nhất thiết pháp bất sanh
"Nhất thiết pháp bất diệt
"Nhược năng như thị giải
"Chư Phật thường hiện tiền
"Hà khứ lai chi hữu…"

 Bồ tát Ca Diếp hứa trước Phật, rằng mình sẽ nổ lực phấn đấu tu học, rằng mình sẽ truyền đạt cho mọi người lời dạy của Phật. Rằng TRƯỜNG THỌ đồng nghĩa với chân lý của vạn phápTHƯỜNG TRỤ. Phật không dạy cách "trường thọ" để kiếm chác thêm dăm ba mươi tuổi nữa...../.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31319)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26211)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27506)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27877)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26693)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31190)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20246)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22885)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30020)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21542)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20219)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22627)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20736)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30272)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28755)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34694)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44194)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35487)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22518)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21341)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20659)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24744)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37878)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19015)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19306)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21784)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20853)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35084)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32588)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28910)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43114)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34912)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43887)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37852)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21314)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43008)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48995)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39812)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53767)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36807)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40782)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49719)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47293)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27675)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27013)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27213)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24063)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20833)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22448)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25087)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25817)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22933)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22459)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21738)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23310)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21152)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant