Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

10 Phẩm Phật Hương Tích

08 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6603)
10 Phẩm Phật Hương Tích

ĐƯỜNG TU KHÔNG HAI
KINH DUY MA CẬT GIẢNG LUẬN
Minh Tâm
Nhà Xuất Bản Thanh Văn - USA 1991

 

10. Phẩm PHẬT HƯƠNG TÍCH

Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất, đại diện cho hàng Thanh Văn đệ tử hãy còn phân biệt thời gian, thấy gần đến giờ ngọ là nghĩ đến việc ăn trưa. Các tu sĩ Nam Tông giữ giới luật ăn ngày một bữa trước giờ ngọ, nếu lỡ quá ngọ chưa ăn thì phải nhịn luôn. Còn các tu sĩ Bắc Tông thì uyển chuyển hơn, quá ngọ ăn cũng được, hoặc ăn ngày hai hoặc ba bữa cũng được, không phải là tham ăn, chỉ do thói quen và để giữ sức khỏe mà thôi. 

Ông Duy Ma Cật muốn làm lợi ích giúp cho hàng Thanh Văn được biết mùi vị giải thoát bèn nhập chánh định, dùng sức thần thông hiện bày cho đại chúng thấy rõ cảnh giới phương trên có nước Phật tên là Chúng Hương, Đức Phật hiệu là Hương Tích, nước ấy không có Thanh VănBích Chi Phật, chỉ có Bồ Tát thanh tịnh được Phật nói pháp cho nghe. Tất cả nhà lầu, vườn hoa, ruộng đất, cơm nước đều do chất hương thơm tạo thành. Ông Duy Ma Cật hóa phép ra một vị Bồ Tát và sai bay lên nước Chúng Hương xin cơm thơm về cho mọi người ăn. 

Nếu cứ theo nghĩa đen, chữ đâu nghĩa đó, thì ở phương trên có nước Chúng Hương, có Phật Hương Tích, có các Bồ Tát, có cơm thơm, không có hàng Thanh VănBích Chi Phật. Theo nghĩa bóng thì các Thanh Văn cần chuyển tâm niệm hẹp hòi cầu pháp nhỏ biến thành Tâm Bồ Đề, bỏ vật chất thế gian để được của báu xuất thế gian, bỏ giường ghế để được ngồi tòa sư tử, bỏ cơm gạo thường để được ăn cơm thơm Chúng Hương, bỏ lòng cầu Niết Bàn cho riêng mình để phát tâm Bồ Đề cầu Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hành Bồ Tát Đạo lợi ích chúng sinh

Nước Chúng Hương thanh tịnh thơm tho nhẹ nhàng vì được tạo thành bằng các hương thơm, trái với cõi Ta Bà nặng nề nhơ uế vì do vật chất làm ra. Cõi Ta BàThanh VănBích Chi Phật còn ham pháp nhỏ tu theo Tiểu Thừa, được ít cho là đủ, còn nước Chúng Hương chỉ có hàng Bồ Tát thanh tịnh được Phật dạy bảo, ý kinh muốn đưa ra sự so sánh hai cõi để chuyển tâm hàng Nhị Thừa hướng về Nhất Thừa Phật Đạo. 

Chỗ khéo léo của Kinh này là không muốn làm hàng Thanh Văn hổ thẹn vì lỡ ham pháp Tiểu Thừa, nên Bồ Tát Văn Thù nói đỡ: “Chớ nên khinh người chưa học”. Nếu làm quý vị Thanh Văn xấu hổ quá thì họ sẽ bỏ đi rất uổng nên Bồ Tát Văn Thù phải nói khéo để gỡ danh dự cho họ, rồi phương tiện hướng dẫn vào Phật Đạo. Trong Kinh Pháp Hoa, khi Phật thuyết giáo lý Đại Thừa, quy ba thừa về một thừa, có năm ngàn Tỳ Kheo bỏ đi. Nhưng ở đây, Ngài Văn Thù cố giúp hàng Thanh Văn chuyển tâm theo Đại Thừa. Cũng một ý đó, Đức Phật Hương Tích căn dặn các Bồ Tát nước Chúng Hương phải tạm giấu thân hương thơm tho tốt đẹp, chớ để chúng sinh cõi Ta Bà sinh tâm mê đắm và tự hổ thẹn. Vì sao? Đức Phật muốn hóa độ những người ưa pháp nhỏ nên hiện ra cõi Ta Bà ô trược hầm hố xấu xa, chứ mười phương cõi nước đều như hư không, vô phân biệt. Đức Phật biết rành tâm lý, không muốn hàng Thanh Văn buồn thẹn mà mong họ thấy cõi Phật Chúng Hương đẹp đẽ mà khởi lòng tu theo Đại Thừa

Phật Hương Tích lấy cái bát ở nước Chúng Hương đựng đầy cơm thơm trao cho Hóa Bồ Tát, vị này cùng chín trăm vạn Bồ Tát ở nước Chúng Hương biến hình, trong khoảnh khắc về đến nhà ông Duy Ma Cật. Ông này hóa hiện ra chín trăm vạn tòa sư tử để mời các Bồ Tát ngồi. Vị Hóa Bồ Tát đem bát cơm thơm dâng lên ông Duy Ma Cật, mùi thơm xông khắp thành Tỳ Xá Li và cả cõi tam thiên đại thiên thế giới

Chín trăm vạn Bồ Tát ngồi trên tòa sư tử trong nhà ông Duy Ma Cật mà không thấy chật hẹp vì đây là nói về Bản Thể dung thông vô ngại, vượt qua mọi hình tướng vật chất nên không có rộng chật gì cả, mười phương thế giới nằm trong hạt cải mà vẫn hiện đủ núi non sông biển. Vì không có vật chất nên không chướng ngại. Thí dụ: chụp hình mặt trăng vào trong tấm ảnh nhỏ xíu mà phong cảnh mặt trăng hiện ra đầy đủ. Chúng ta nghĩ tới quê hương thì hình ảnh núi đồi sông ngòi nhà cửa hiện ra trong tâm thức, những hình ảnh đó đều dung thông vô ngại

Trưởng Giả Chủ là người đứng đầu các vị trưởng giả làm chủ tể cai trị nhân dân trong thành. Nguyệt Cái là tên ông ta, mà cũng có ý nghĩa là cái lọng (bảo cái) hình tròn như mặt trăng dùng để che mưa nắng bụi bậm không làm khó chịu bậc tôn quý. Trưởng Giả Chủ Nguyệt Cái đem theo tám vạn bốn ngàn người đến đảnh lề các Bồ Tátđại đệ tử, là có ý tượng trưng cho việc các chúng sinh đã phát tâm quy y Tam Bảo, tuân thủ giáo lý Đại Thừa. giáo lý này tròn trặn đầy đủ, hoàn toàn viên mãn, có công năng che chở chúng sinh khỏi bị nhiễm ô, ví như cây lọng báu che các vị Vua quan quyền quý

Bấy giờ ông Duy Ma Cật bảo Ngài Xá Lợi Phất và các đại đệ tử Thanh Văn lấy cơm thơm mà ăn, dùng cơm vị cam lồ của Như Lai do đại bi huân tập, đừng đem ý có hạn lượng mà ăn thì không tiêu được. Có các Thanh Văn khác nghĩ rằng cơm này ít lắm mà đại chúng ngưởi nào cũng phải ăn. Làm sao cho đủ ? 
Đây là các vị Thanh Văn còn chấp tướng, phân biệt cơm ít người nhiều, còn ông Duy Ma Cật đứng về Thể Tánh mà bảo: đừng đem ý có hạn lượng mà ăn thời không tiêu được. Vị Hóa Bồ Tát cũng nói: Chớ đem trí hẹp đức nhỏ của Thanh Văn mà so lường phước huệ vô lượng của Như Lai

Rõ ràng là đoạn này muốn đưa người đang tu theo giáo lý Tiểu Thừa bước sang Đại Thừa, muốn hướng dẫn hàng Thanh Văn vào Bồ Tát Đạo. Đừng có ý hạn lượng phân biệt thì cơm mới tiêu, thì mới kham được pháp lớn, thì mới bỏ tướng trạng mà nhập Bản Thể Chân Như vô cùng vô tận. Các Bồ Tát, Thanh Văn, Trời, ngườì ăn no đủ mà cơm vẫn còn, thân thể nhẹ nhàng vui vẻ, các lỗ chân lông thoảng ra mùi hương thơm. 

Có một bát cơm mà tất cả chúng hội mấy trăm vạn người ăn no đủ mà vẫn còn, người ăn lại cảm thấy thân thể nhẹ nhàng vui vẻ, các lỗ chân lông thoảng ra mùi hương thơm thì thật là huyền diệu nhiệm mầu, nhất định không phải là loại cơm gạo vật chất để nuôi thân, mà là cơm gạo tinh thần để nuôi tâm, trưởng dưỡng phát huy Tâm Bồ Đề. Vì không phải vật chất nên không có hạn lương, vì thuốc tâm linh nên ảnh hưởng lan rộng cao xa, mùi vị của Đạo thấm vào tâm hồn khiến mọi người cảm thấy nhẹ nhàng thanh thoát, lâng lâng thoát tục, mình được hưởng Pháp vị rồi lại muốn đem Pháp vị cho người khác, nên các lỗ chân lông thường ra mùi hương thơm, các loài chúng sinh khác cũng được ngửi mùi hương đó. Người xưa có hai câu thơ để diễn tả Đạo vị

Quế hương bất viễn thư hương viễn, 
Thế vị vô như Đạo vị trường. 

nghĩa là mùi hương của quế không thoảng xa bằng mùi thơm của sách vở, vị ngon ngọt của đời không kéo dài lâu xa bằng mùi vị của Đạo Đức

Cơm thơm của Phật Hương Tích ban cho chúng hội trong nhà ông Duy Ma Cật chính là Pháp Thực, là Thiền Duyệt Thực là món ăn tinh thần để nuôi dưỡng phần tâm linh, chúng ta nghe một bài pháp say sưa quên đói, ngồi thiền cảm thấy no đủ sung sướng, mà Pháp và Thiền thì rộng rãi vô cùng, bao nhiêu người nghe, người tu cũng đầy đủ, không thiếu. Pháp, Thiền, Đạo, sách vở kinh điển... đều là những món ăn tinh thần cần thiết giúp người tu mở mang trí huệ, tự giác giác tha. Mình được ăn rồi, nếm rồi, nghe rồi thì phải mời người khác cùng hưởng Pháp vị như mình. 

Đoạn kinh sau đây so sánh lối nói pháp ở hai cõi Chúng Hương và Ta Bà. Cõi Chúng Hương ở trên cõi Ta Bà cách xa 42 số cát sông Hằng cõi Phật, nhẹ nhàng siêu việt hơn cõi Ta Bà nhiều, cho nên Đức Phật Hương Tích không cần dùng ngôn ngữ văn tự để nói, mà chỉ dùng các mùi hương thơm khiến các Trời người vâng giữ luật hạnh (giữ gìn giới luật, không làm việc ác, chỉ làm hạnh lành). Các Bồ Tát cõi đó chỉ việc ngồi dưới cây hương, ngửi mùi hương thơm mầu nhiệm là được Tam Muội Nhất Thiết Đức Tạng, nghĩa là được chánh định đầy đủ tất cả mọi công đức. Ý kinh muốn nói chúng sinh cõi Chúng Hương nghiệp nhẹ nên chi cần ngửi mùi hương là phát tâm tu hành. Tâm Phậtchúng sinh dễ dàng cảm thông

Còn chúng sinhcõi Ta Bà thì nghiệp nặng, cang cường khó giáo hóa, cứng đầu cứng cổ, nên Đức Phật Thích Ca phải phương tiện dùng lời nói cứng rắn mạnh mẽ để điều phục họ. Đây là các phương pháp giáo hóa khác nhau mà chư Phật áp dụng tùy từng cõi. Chúng sinh dễ dạy thì dùng phương pháp nhẹ nhàng dịu ngọt, chúng sinh khó dạy thì dùng phương pháp oai dũng nặng nề như trách mắng đe dọa, nhưng tất cả mọi phương pháp đều cùng một mục đíchchỉ đường dẫn lối chúng sinh về nẻo giác. Ở cõi Ta Bà uế trược, Đức Phật cho thấy có ba cõi sáu đường, có luật nhân quả luân hồi chi phối, để chúng sinh sợ hãi nhàm chán, rồi Ngài dạy quy y giữ giới, làm lành lánh đữ, điều phục thân miệng ý, so sánh phân biệt tội phước, hữu lậu với vô lậu, thế gian với Niết Bàn... Tuy biết rằng phân biệt như vậy là không đúng với Chân Lý Bình Đẳng Nhất Như, nhưng Đức Thế Tôn ẩn cái sức tự tại vô lượng của Ngài mà dùng phương tiện tùy theo sở thích của người nghèo hèn để độ thoát chúng sinh: Phật biết chúng sinh ưa gì thì cho nấy, lúc đầu chúng ưa pháp nhỏ, được Hữu Dư Y Niết Bàn đã cho là đủ, nay đã đến thời cơ đem pháp lớn dạy người tu hành tiến tới chỗ giác ngộ rốt ráo. Kinh Pháp Hoa đưa ra thí dụ Hóa Thành là cùng một ý nghĩa như vậy. 

chúng sinh cõi Ta Bà phước mỏng nghiệp dầy, khó bảo khó dạy, nên các Bồ Tát phải dùng sức phương tiện chịu khổ sở nhẫn nhục, dùng lòng đại bi vô lượng thị hiện sinh vào cõi này, ẩn giấu thân tướng to lớn cao đẹp và hiện ra thân hình bé nhỏ xấu xa, thật là mộl sự hy sinh rất lớn lao mà chỉ các Đại Bồ Tát mới làm được. Tuy nhiên, các Bồ Tát ở cõi này làm lợi ích cho chúng sinh trong một đời còn hơn trăm ngàn kiếp tu hành ở các cõi khác, vì sao? Vì chúng sinh cõi Ta Bà có nhiều thói hư tật xấu để Bồ Tát dạy dỗ, chúng sinh các cõi khác không có tật xấu thì Bồ Tát lấy ai mà cứu độ? Đúng vậy, có người nghèo đói thì mình mới có cơ hội bố thí, có người giận dữ thì mình mới có cơ hội tu nhẫn nhục, có người loạn động thì mình mới có cơ hội dạy họ tu thiền định, có kẻ ngu si thì mình mới có cơ hội khuyên họ tu trí huệ, có người ưa pháp Tiểu Thừa thì mình mới có dịp đem giáo lý Đại Thừa ra thuyết giảng... còn ở các cõi Tịnh Độ khác, dân chúng đều thanh tịnh tinh tấn tu hành thì các Bồ Tát không có duyên lành giáo hóa, thiếu mục tiêu làm việc lợi tha

Bồ Tát cần nương chúng sinh để được sinh về cõi Tịnh Độ, cần hóa độ chúng sinh để hoàn mãn nguyện lớn tiến lên quả vị Phật. Muốn vậy, các Bồ Tát cần thành tựu tám pháp lành: 

1) Làm lành mà không mong báo đáp (vô cầu). 
2) Gánh chịu khổ não cho chúng sinh (từ bi). 
3) Ban công đức cho chúng sinh (hỷ, xả, lợi tha). 
4) Dưới khiêm nhường chúng sinh, trên cung kính Bồ Tát (trên kính, dưới nhường, hạ mình đối đãi bình đẳng, không ngăn ngại). 
5) Cầu học những điều chưa biết (tiến tu, không nghi ngờ). 
6) Không chống trái với hàng Thanh Văn (không khinh chê người tu kém, dùng phương tiện dắt dẫn họ tiến thêm). 
7) Không ganh ghét tật đố, không khoe mình chê người (điều phục tâm). 
8) Trách mình, tha thứ cho người (hướng nội tự tu, hướng ngoại lợi tha), nhất tâm cầu công đức (hướng về giác ngộ giải thoát, không mong phước đức thế gian). 

Đây là tám phương pháp mà các Bồ Tát và tất cả những ai tu hạnh Bồ Tát Đại Thừa cần phải thực hành, tựu trung vẫn là phá ngã chấppháp chấp, phát triển từ bi hỷ xả, lợi tha, không khinh chê kẻ có tội hay người tu còn kém, thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sinh, điều phục tâm mình, chỉ tự trách mà còn tha thứ cho người, chỉ nhìn lỗi mình không thấy lỗi người, có được chút công đức gì thì chia xẻ cho tất cả chúng sinh đồng thành Phật Đạo. 

Sau khi được nghe ông Duy Ma Cật và Ngài Văn Thù nói pháp mầu, trong đại chúng có trăm ngàn Trời người phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, những hạng Trời người này trước chỉ tu phước hoặc mong cầu Niết Bàn của Tiểu Thừa, nay tỉnh ngộ phát tâm tu theo Đại Thừa

Mười ngàn Bồ Tát chứng được Vô Sinh Pháp Nhẫn: Các Bồ Tát mới phát tâm được nghe Chánh Pháp cao siêu nhiệm mầu, trí huệ sáng soi, diệt trừ được vi tế vô minh, chứng quả vô sinh bất thối chuyển, thẳng tới quả vị Phật. 

Mật ý của phẩm này là đề cao sức oai thần của các vị Đại Bồ Tát mà từ trước các hàng Thanh Văn, Trời người chưa thấy chưa biết, sự hiểu biết của họ còn nông cạn, như những người mù sờ voi, chỉ biết một phần sự thật mà thôi. Ông Duy Ma Cật xin cơm thơm ở nước Chúng Hương bên trên đem về cho hàng Thanh Văn, Trời người ăn, có ý nghĩa là đem Chân Lý cao siêu huyền diệu tột cùng ra chỉ dạy để dắl dẫn người tu tiểu Thừa hoặc tu phước, nay chuyển sang Đại Thừa, hướng về giác ngộgiải thoát cho tất cả chúng sinh. Nhờ cơm mà chúng sinh no, nhờ pháp Đại Thừachúng sinh được giải thoát.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29856)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27119)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21739)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22202)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23591)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20386)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20028)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21914)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24709)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18950)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24693)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30936)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23950)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27743)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26486)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21266)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23193)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38079)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18790)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18406)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19900)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 18981)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23119)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23853)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22768)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22885)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29547)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20609)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18679)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15820)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18812)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19621)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20126)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19910)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18094)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22888)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34143)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16400)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16892)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39170)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26016)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20073)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18795)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24028)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29079)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22888)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30900)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20988)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26818)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20634)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26222)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23300)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19795)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24616)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29964)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20191)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20380)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15111)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15794)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23838)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant