Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

6- Bất Tư Nghì

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7613)
6- Bất Tư Nghì

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Bất Tư Nghì

1- Cầu pháp chẳng cầu tòa

Cái thất không của Duy-ma-cật để tượng trưng cho chỗ “ưng vô sở trụ” vì thế không có chỗ để ngồi. Còn có chỗ để ngồi là còn có vị trí, có vị trí sẽ có cao thấp, mất tính cách bình đẳng. Tìm tòa ngồi cũng như mình tu mà mong đạt một quả vị, một chỗ nào đó trong thứ bậc của Phật pháp. Đó là đại ý những lời biện luận của Duy-ma-cật đối với ngài Xá-lợi-phất.

Nhân giả vì pháp mà đến hay vì ghế ngồi mà đến?

Nếu là người vì pháp thì không nghĩ đến thân mạng, vì nghĩ đến thân thì mới cầu một vị trí khả xứng, không quý thân nên chẳng cầu chỗ đứng ngồi. Ở đâu cũng là trong pháp tánh cả, đôi khi vì vị trí mà quên mất pháp tánh. Thế nên các bậc Đại Hòa thượng đôi lúc đi làm kẻ ăn xin, từ bỏ ngôi vị tôn quý trong chùa để ở dưới gầm cầu…

Pháp là thể Chơn như, là lý tánh tuyệt đối không phải là pháp của năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới… chẳng phải là pháp hạn cuộc trong ba cõi, vượt ra khỏi hình thức đối đãi nên người cầu pháp chớ kẹt trong tình lượng.

Người cầu pháp không bị kẹt vào Phật, Pháp và Tăng vì đó chỉ là sự thể hiện của lý tánh. Đắm vào Phật thì dính vào hình ảnh, danh từ chưa thể gỡ bỏ được. Kinh Kim Cang, Phật dạy:

“Nhược dĩ sắc kiến ngã

âm thanh cầu ngã

Thị nhân hành tà đạo

Bất năng kiến Như Lai”.

Người cầu pháp cũng không đi theo đường Tứ đế dù cho đó là chân lý do đức Phật nói ra. Không cần phải thấy khổ, dứt tập, tu đạo, chứng diệt vì đó cũng chỉ là vị trí tạm thời của Thanh văn.

Tóm lại pháp là tịch diệt, vắng lặng vượt ngôn ngữ tư duy và mọi hình thức, có tâm cầu là còn khởi ý niệm tư duy, không sống được với pháp thể. Pháp không nhiễm trước cho rằng có Niết-bàn là vị trí tối cao cũng là hình thức nhiễm trước không phù hợp với pháp. Pháp không có chỗ thực hành, nếu cho rằng có pháp môn để thực hành, cũng không đúng với ý nghĩa cầu pháp. Từ pháp môn này so với pháp môn kia, sanh kỳ thị hơn kém, thế gọi là kẹt ở chỗ thực hành, không thấu được pháp thể. Pháp không có nắm giữ hay buông bỏ, pháp không có chỗ nơi, pháp không hình tướng… pháp không thể dùng kiến văn giác tri để nắm bắt. Pháp là Vô vi, tất cả những hành động nắm buông, nhìn ngó… đều là Hữu vi không thể nào nắm được Chơn pháp.

Ở trong chỗ không thể cầu mà khởi một niệm - như ngài Xá-lợi-phất khởi niệm tìm ghế ngồi - là đã không thấy được pháp thể, cho nên Duy-ma-cật nhân đó đưa ra nguyên tắc “Đối với tất cả pháp nên không có chỗ cầu”.

Nếu không một niệm mới thật tìm,

Còn có tâm tìm toàn chẳng biết.

Chỗ thật pháp không dung một niệm, phải buông hết tất cả mới tương ưng.

2- Tòa Sư tử

Biện luận trên lý thể, nếu không bày tỏ sức thần thông diệu dụng dễ rơi vào chỗ cực đoan, chỉ nói suông mà không cho thấy hùng lực của thật pháp. Vì thế đến đây Duy-ma-cật trở lại việc tìm tòa ngồi. Ông hỏi Bồ-tát Văn-thù cõi nước nào có tòa ngồi tốt đẹp bậc nhất. Được trả lời rằng ở cõi nước Tu Di Tướng có tòa sư tử cao lớn trang nghiêm, ông vận thần thông khiến ba vạn hai ngàn tòa sư tử đều hiện ở trong thất mình, như thế không thấy chật và cả cõi nước, đô thành cũng không cảm thấy bị ép ngặt. Cái thất của Duy-ma-cật chỉ rộng khoảng 4m2 mà dung chứa mấy trăm ngàn trời người, rồi thêm mấy chục ngàn tòa ngồi, tòa nào cũng cao lớn đến bốn muôn hai ngàn do tuần (42.000 do tuần # 84.000 cây số), vẫn thấy thong thả. Duy-ma-cật chẳng phải ra sức vận chuyển hay trang hoàng, tòa ngồi tự có. Những việc này đều chỉ do sức diệu dụng, hoạt dụng tự nhiên khi đạt đến chỗ thấu suốt lý tánh, sống với tâm ấy thì mọi sự có đủ, như ta vốn sẵn đủ từ xưa nay.

Vô nhất vật trung vô tận tạng 

Hữu hoa hữu nguyệt hữu lâu đài.

Chỗ “bản lai vô nhất vật” mà Lục Tổ nói đến, trong đó có cả kho tàng vô tận có hoa, có trăng và chứa đựng cả đền đài lầu các. Một đoạn kinh này cũng mô tả ý ấy.

Tòa ngồi cao rộng, Duy-ma-cật mời các đại Bồ-tát hiện thân cao bằng tòa rồi mới ngồi. Tòa và thân tương ưng nhau, tâm và cảnh xứng hợp, cảnh to lớn thì tâm cũng bao trùm. Xá-lợi-phất và các hàng bậc trung vì tâm chưa đạt mức viên dung vô ngại nên không thể lên tòa cao, cần phải đảnh lễ đức Phật Tu Di Đăng Vương. Đảnh lễquy mạng hướng về tức đem tâm nhỏ hẹp hướng về nơi cao rộng, tức có thể ngồi tòa này.

3- Bất tư nghì giải thoát

Nhân Xá-lợi-phất khen ngợi việc chưa từng có, Duy-ma-cật bèn giới thiệu sức giải thoát bất tư nghì của chư Phật và Bồ-tát. Chúng ta không giải thoát vì còn vướng mắc vào hình tướng, vào sự phân chia, vào thời gian không gian…

Ở đoạn kinh này giới thiệu sức giải thoát vượt ra khỏi hạn cuộc của hình tướng, của mọi ý niệm phân chia… bằng các ví dụ sau: Đem núi lớn nhét vào trong hạt cải, một vật thật nhỏ mà dung chứa cả ngọn núi trong lòng, không thấy bức bách. Đưa bốn biển lớn vào trong một lỗ chân lông mà nước biển không giảm sút. Lớn thật lớn, nhỏ thật nhỏ, chỉ là hình thức đối đãi, các vật chất đều phô bày hình tướng của chúng khác nhau. Nếu không kẹt vào tướng ấy, chúng ta có sức giải thoát, nên kinh mới cho đem vật lớn vào vật nhỏ. Ngày nay, một hạt nguyên tử có sức nổ lớn, khoa học có thể chứng minh điều đó. 

Bồ-tát được sức giải thoát, có thể ngắt lấy tam thiên đại thiên thế giới như người thợ gốm nắm một cục đất sét. Thế giới của chúng ta thấy là to rộng, nhưng nhìn trong thế giới loài kiến, mối thì chúng cũng thấy thế giới của chúng là tam thiên đại thiên. Vậy thì phân biệt không có lý do tồn tại, không gian tùy quan niệm của đương sự. 

Tiếp đến là giải thoát về thời gian. Dài hay ngắn, bảy ngày làm một kiếp, một kiếp rút lại làm bảy ngày là khả năng của Bồ-tát. Thật ra thời gian dài ngắn cũng là tương đối, tùy môi trường ánh sáng, tùy vòng quay của hành tinh. Thấu rõ những điều kiện này, chúng ta vượt qua giới hạn của thời gian.

Khả năng tập trung và khả năng phân bố, khả năng tự tại với sức gió sức lửa, khả năng tung hoành trong tất cả các phương sở nơi chốn, khả năng hiện các thân hình, biến các âm thanh… Những điều này nói về sức giải thoát đối với tứ đại, với các khoảng cách xa gần, với tất cả số nhiều không thể tính kể, đều là sự diệu dụng. Người thông đạt bản chất các pháp như nhà nghiên cứu nắm một số bí quyết kỹ thuật, có thể làm tất cả những gì mình muốn. Trong phạm vi vật chất còn tạo được vô số thần thông, huống chi trên tâm thể không ngăn ngại, tâm thể rộng lớn không bờ mé thì tất cả biến hiện chỉ là bọt nổi.

Hiểu được ý này nên ngài Đại Ca-diếp hết lời khen ngợi pháp giải thoát bất tư nghì và khuyến khích đại chúng hướng về tâm Bồ-đề Vô thượng. Thanh văn nghe pháp này nên khóc rống lên, Bồ-tát nên hoan hỷ vui mừng, vì Thanh văn không hiểu được ý vi diệu, còn Bồ-tát thì thấu hiểu sức đại tự tại của chính mình.

Duy-ma-cật nói thêm, người trụ sức giải thoát bất tư nghì thường hiện làm Ma vương để thử thách, vì có thế lực mạnh nên hiện các sự bức bách khiến cho tâm hành giả thêm kiên cố. Nếu vượt qua được thử thách này thì mới trụ vào sức giải thoát bất tư nghì. Vì giải thoát này không phải là giải thoát bình thường mà là một sự chấn động lớn, sức giải thoát vi diệu cởi toang mọi ràng buộc rối rắm từ vô minh, từ tận trong hang sâu thẳm của mê mờ. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49657)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34588)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33416)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43862)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56973)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47499)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39376)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38424)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52868)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36560)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32198)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40393)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43419)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31419)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46664)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36127)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28657)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29182)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31835)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28760)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33305)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29074)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60942)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39683)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26613)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29627)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37301)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40032)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26809)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42595)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37215)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28250)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28858)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26352)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27124)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26156)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34545)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27769)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30432)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33198)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28515)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30026)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25456)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21808)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51224)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26652)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28572)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27663)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24314)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27416)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31875)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30134)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27655)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35380)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27397)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29971)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31693)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22975)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24130)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 22973)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant