Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9- Nhập Bất Nhị Pháp Môn

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7279)
9- Nhập Bất Nhị Pháp Môn

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Nhập Bất Nhị Pháp Môn

Một trong những công án Thiền là câu “Muôn pháp trở về một, một về chỗ nào?” Cái một ấy bao trùm tất cả, chứa đựng tất cả, dung thông tất cả, ở đâu cũng chính nó, vậy thì có gì đến đi. Danh từ một và hai chỉ là số lượng phân biệt của thế gian, nhưng từ chỗ khởi đầu phân biệt một và cái khác với một ấy, nảy sinh ra vô số phân biệt, lôi kéo không cùng. Nay đưa ra câu hỏi về “bất nhị”, cũng giống như ý nghĩa hành phi đạo chính là con đường Phật để các vị Bồ-tát nói lên quan điểm của mình. Qua đó, chúng ta thấy rằng Bồ-tát sau khi thực hiện tất cả việc độ sanh, đi khắp nơi, đến với mọi loài thì sẽ có một cái nhìn quán triệt, thông đạt không ngại.

VĂN KINH

Lúc ấy Duy-ma-cật nói với chúng Bồ-tát rằng: “Chư nhân giả! Thế nào là Bồ-tát vào pháp môn không hai?” Đến đây các vị Bồ-tát lần lượt nói lên ý kiến của mình.

1- Bồ-tát Pháp Tự Tại nói: Sanh và diệt là hai. Pháp vốn xưa chẳng sanh, nay ắt chẳng diệt. Được Vô Sanh Pháp Nhẫn là vào pháp môn không hai.

Nhìn tổng quát các hiện tượng, chúng ta bị chi phối bởi sự có mặt và sự biến mất của chúng. Bồ-tát nhìn trên bản thể, thấy không sanh diệt, được một cái nhìn sâu, bao trùm như thế thì thấy không có hai.

2- Bồ-tát Đức Thủ nói: Ngã và ngã sở là hai. Vì có ngã nên mới có ngã sở, nếu không có ngã thì không có ngã sở.

Vị Bồ-tát này đặt vấn đề chính ở bản ngã. Ý thức về mình về người, về cái của ta và không phải của ta, làm mọi sự chia cắt. Ngã là cái nút cần được tháo gỡ, một thi sĩ nói:

Khi chưa có ta hề đường đi thênh thang

Kịp khi có ta hề chông gai mênh mang.

3- Bồ-tát Bất Huyễn nói: Thọ và chẳng thọ là hai. Nếu chẳng thọ đối với các pháp thì là bất khả đắc. Vì bất khả đắc nên không lấy không bỏ…

Bồ-tát này đứng về thái độtư tưởng trên các pháp, chấp nhận hoặc không chấp nhận đều là hai việc cần buông bỏ. Đức Phật nói: “Ta đối với các pháp đều nhận biết, nhưng tất cả đều Vô sở thọ”.

4- Bồ-tát Đức Đảnh nói: Nhơ và sạch là hai, thấy bản chất thật của nhơ thì không thấy có tướng sạch…

Nhơ cũng như sạch, đều không có bản chất thật, tùy nghiệp, tùy các cư xử của mọi loài mà nói nhơ, nói sạch. Nơi đống rác, đống phân vẫn là nhà cửa của vô số loài, bỏ đi cái nhìn dị biệt, có nghĩa là đừng bắt mọi loài nhìn theo ý kiến của mình thì sẽ không thấy trở ngại. Tuệ Trung Thượng Sĩ bảo:

Pháp thân không ngăn ngại

Nào sạch lại nào dơ

Xưa nay không dơ sạch

Dơ sạch thảy tên suông.

5- Bồ-tát Thiện Túc nói: Động và niệm là hai. Chẳng động ắt là không niệm. Không niệm tức là không phân biệt

Động là sự máy động, chớm khởi động của tâm thức, niệm là cái khởi động đã thành dòng tư tưởng. Cái chớm khởi còn ở tình trạng nguyên sơ, nhưng là đã tách mình ra khỏi khối đồng nhất, nên từ đó dẫn đến niệm tưởng, hễ có niệm tưởng thì mọi việc phân chia, không vào Pháp môn Bất nhị.

6- Bồ-tát Thiệân Nhãn nói: Nhất tướngvô tướng là hai. Nếu biết nhất tướng tức là vô tướng cũng không chấp giữ vô tướng, vào chỗ bình đẳng là vào pháp môn Bất nhị

Có tướng và không tướng thay phiên nhau biểu hiện. Sợ tướng nên tìm đến không tướng cũng còn kẹt hai bên, ngay nơi tướng biết là không có tướng, mọi vật bình đẳng.

7- Bồ-tát Diệu Tý nói: Tâm Bồ-tát và tâm Thanh văn là hai. Quán tâm tướng không, như trò ảo hóa thì không thấy có tâm Bồ-tát khác với tâm Thanh văn, đó là vào pháp môn Bất nhị

Bồ-tát mà còn chấp có tâm Bồ-tát và tâm Thanh văn thì chưa phải Bồ-tát.

8- Bồ-tát Phất Sa nói: Thiện và bất thiện là hai. Nếu chẳng khởi ý cho là thiện, bất thiện, đến bờ mé vô tướng để thông đạt là vào pháp môn Bất nhị

Vẫn thường hằng làm thiện nhưng không chấp trước vào việc của mình, không phân biệt đối xử khi gặp người thiện - bất thiện.

9- Bồ-tát Sư Tử nói: Tội và phước là hai. Nếu thông đạt tánh của tội thì cùng phước không khác… 

Tánh của tội cũng như tánh của phước đều không thật, tội phước phát sanh từ tâm vọng, cho là tội là phước đứng về phía này chống báng phía kia đều là không đúng pháp thể.

10- Bồ-tát Sư Tử Ý nói: Hữu lậuvô lậu là hai. Nếùu chứng đắc các pháp bình đẳng thì không khởi ý niệm về hữu lậu, vô lậu, không chấp tướng cũng không trụ vào vô tướng… 

Sở dĩphiền não là vì không thấy được tánh cách bình đẳng của các pháp. Nếu được tâm như thì đến chỗ vô lậu mà không còn chấp đó là vô lậu.

11- Bồ-tát Tịnh Giải nói: Hữu vivô vi là hai. Nếu lìa tất cả số đếm thì tâm như hư không, do trí tuệ thanh tịnh không chỗ trở ngại mà vào pháp môn Bất nhị

Pháp hữu vi có tạo tác hình tướng nên có số đếm, ở đây lìa tất cả hình tướng đến chỗ tâm rỗng rang nên gọi là nhập pháp môn Bất nhị.

12- Bồ-tát Na-la-diên nói: Thế gianxuất thế gian là hai. Tánh không của thế gian tức là xuất thế gian. Trong đó không vào, không ra, không đầy, không vơi… 

Chán thế gian nên hướng vào xuất thế gian. Lục tổ Huệ Năng nói: “Phật pháp tại thế gian. Bất ly thế gian giác. Ly thế mích Bồ-đề. Kháp như tầm thố giác.” Nghĩa là: Phật pháptại thế gian. Không lìa thế gian mà được giác ngộ. Lìa thế gian tìm giác ngộ thì cũng như tìm sừng con thỏ.

13- Bồ-tát Thiện Ý nói: Sanh tử Niết-bàn là hai. Nếu thấy được tánh của sanh tử là không sanh tử. Không trói không mở, không cháy không tắt…

Tuệ Trung Thượng Sĩ nói: Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh. Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt.

14- Bồ-tát Hiện Kiến nói: Tận và bất tận là hai. Nếu là pháp cứu cánh tận cũng như bất tận đều là tướng vô tận… 

Khi chúng ta phân biệt thì các pháp kéo dài, mong cho tận cùng hay không tận cùng cũng đều sai.

15- Bồ-tát Phổ Thủ nói: Ngã và vô ngã là hai. Ngã còn chẳng thể đắc làm sao đắc được phi ngã…

Thông thường chúng sanh chấp ngã, nhưng thật ra đó chỉ là cái hiểu biết về ngã không đến nơi đến chốn, cho nên rốt cuộc nói ngã, nói vô ngã cũng chỉ trên ngôn ngữ.

16- Bồ-tát Điện Thiên nói: Minh và vô minh là hai. Thật tánh của vô minh là minh. Minh cũng không thể giữ lấy, lìa tất cả số lượng trong ấy bình đẳng không hai.

Vô minh là mê mờ điên đảo, vô minh không có tánh chất thật cố định, nếu vô minh cố định thì làm sao tu? Biết được điều này là minh cũng đừng chấp tướng minh cố định vĩnh viễn.

17- Bồ-tát Hỷ Kiến nói: Sắc, không là hai. Sắc tức là không, phi sắc cũng là không… 

Đây thuộc về lý Bát-nhã.

18- Bồ-tát Minh Tướng nói: Tứ đạiKhông đại khác nhau, là hai. Tánh của tứ đại là tánh của không đại… Nếu biết tánh các đại là như vậy tức nhập pháp môn Bất nhị.

Tứ đại chủngkhông đại chủng đều từ nguồn gốc ban đầunhất tâm, thế nên bản tánh đồng. Chỉ vì theo duyên nghiệp chúng sanh mà thấy có khác.

19- Bồ-tát Diệu Ý nói: Nhãn cănsắc trần là hai. Nếu biết tánh của nhãn căn đối với sắc không tham, không sân, không si, đó gọi là tịch diệt vắng lặng. Năm căn và năm trần còn lại cũng giống như thế, các căn đối với các trần không bị chi phối là vào pháp môn Bất nhị

Các Thiền sư thường nói: Căn trần không đến nhau là giải thoát. Vào pháp môn Bất nhị là vào chỗ giải thoát ấy.

20- Bồ-tát Vô Tận Ý nói: Bố thíhồi hướng Nhất thiết trí là hai. Cho đến trì giới… đối với hồi hướng Nhất thiết trí là hai. Tánh của bố thí… là thật tánh của hồi hướng Nhất thiết trí. Ở trong ấy vào một tướng là pháp môn Bất nhị.

Hành lục độ là tiến đến Phật đạo, hồi hướng Nhất thiết trí cũng tiến đến Phật đạo, nên chỉ cần vào một tướng cũng đủ.

21- Bồ-tát Thâm Tuệ nói: Không, vô tướng, vô tác là hai (khác nhau nên thấy hai). Không tức là vô tướng, vô tướng tức là vô tác, vào một môn giải thoát tức vào ba môn giải thoát

Ý này giống ý trên.

22- Bồ-tát Tịch Căn nói: Phật, Pháp, Tăng là hai. Phật tức là Pháp, Pháp tức là Tăng. Tam bảo đều là tướng vô vi, bình đẳng như hư không, tất cả pháp cũng thế.

Đối với Tam bảo là ba ngôi báu, các pháp dù quý dù tiện cũng đều bình đẳng. Lục Tổ nói: Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là thanh tịnh. Quy y Tam Bảotrở về với ba đức tính sẵn có nơi một thân ta.

23- Bồ-tát Tâm Vô Ngại nói: Thân và thân hoại là hai. Thân tức thân hoại. Vì sao? Người thấy thật tướng của thân tức không thấy thân và thân hoại. Thân và thân hoại không hai, không thể phân biệt, đối với điều này không kinh sợ là vào pháp môn Bất nhị.

Vì yêu thích thân nên sợ mất thân, đó là còn thấy hai.

24- Bồ-tát Thượng Thiện nói: Thân, khẩu, ý lành là hai. Ba nghiệp đều không có tướng tạo tác… Nếu hay theo được tuệ không tạo tác đó là vào pháp môn không hai.

Làm lành mà không thấy có làm, đó là tuệ vô tác.

25- Bồ-tát Phước Điền nói: Phước hạnh, tội hạnh và bất đồng hạnh là hai. Tánh thật của ba hạnh ấy là không… 

Làm tội và làm phước là một bên, không làm tội phước tức là bất động nghiệp, nghiệp vô vi, cho đó là một bên. Không khởi tâm về bên này hay bên kia nên vào pháp môn Bất nhị.

26- Bồ-tát Hoa Nghiêm nói: Từ ngã khởi nhị biên là hai. Thấy thật tướng của ngã thì không khởi pháp hai bên, không ở trong nhị biên đó là Vô sở thức… 

Từ chấp có ta nên khởi lên thấy các pháp ngoài ta, đó là nhị biên, thấy có mình, người, chúng sanh… Nếu thấy ta không thật thì mọi cái thấy khác đều mất.

27- Bồ-tát Đức Tạng nói: Có tướng sở đắc là hai. Nếu không sở đắc ắt là không lấy, không bỏ. Không lấy, bỏ là vào pháp môn Bất nhị

Tướng sở đắc gồm hai phần: năng đắc và sở đắc. Vì có năng thì có sở, chia hai bên. Không năng sở thì an nhiên vô vi.

28- Bồ-tát Nguyệt Thượng nói: Tối với sáng là hai. Không tối không sáng ắt không có hai. Như nhập Diệt thọ tưởng định không tối không sáng… 

Đối với sự cảm thọ các pháp như không gian, thời gian ánh sáng… đều lặng lẽ thì gọi là nhập pháp môn Bất nhị, trong đó chỉ có dòng tâm trôi chảy, đôi khi không cần ánh sáng ta vẫn thấy biết.

29- Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói: Thích Niết-bàn chán ghét thế gian là hai. Nếu chẳng thích Niết-bàn chẳng ghét thế gian thì không có hai. Vì sao? Nếu có trói ắt có mở, nếu vốn không bị trói thì ai cầu mở. Không buộc không mở không ưa không chán là vào pháp môn Bất nhị

Chọn lựa thì sẽ có vui buồn theo sau.

30- Bồ-tát Châu Đảnh Vương nói: Chánh đạotà đạo là hai. Người trụ chánh đạo thì không phân biệt là tà là chánh. Lìa hai cái này là vào pháp môn Bất nhị.

31- Bồ-tát Nhạo Thật nói: Thật và chẳng thật là hai. Người thấy thật còn không thấy chỗ thật chẳng thật. Vì sao? Chỉ có tuệ nhãn mới thấy được. Nhưng tuệ nhãn không thấy mà chỗ nào cũng thấy, đó là vào pháp môn không hai.

Đại ý hai vị Bồ-tát này nói đến chỗ chân lý chính đáng thì không chia đây kia hơn kém. Người giải thoát thật sự chẳng màng gì những so đo.

*

Ba mươi mốt vị Bồ-tát đều nói về pháp môn Bất nhị, mỗi người mỗi cách trình bày, nhưng đều gặp nhau ở chỗ tận cùng lẽ thật, chỗ không cho ý niệmngôn ngữ có thể chen vào. Bồ-tát là luôn luôn nêu lý tưởng đạt đến chân thật rốt ráo, luôn ở trong giải thoát. Nhưng qua lời các Ngài nói thì chỗ giải thoát thật sự chính là chỗ đất tâm không dính. Không còn chia phân. Đâu đâu cũng là viên minh tròn sáng. 

Cuối cùng ngài Văn-thù nói rằng: “Theo ý tôi đối với tất cả pháp không nói, không thuyết, không chỉ bày, không ý niệm, lìa vấn đáp là đến chỗ pháp môn Bất nhị.” 

Đây là lời tổng kết, nói đến đây rồi mà hỏi Duy-ma-cật thì Ngài chỉ lặng thinh, “Thời Duy-ma-cật mặc nhiên vô ngôn”.

Sự im lặng của Duy-ma-cật là một lời kết thúc hay nhất, chấm dứt mọi ngôn ngữ. Nói hay không nói đều chẳng ra ngoài tâm, lời các Ngài nói đã nhiều rồi. Ở đây Duy-ma-cật hiển lộ chỗ không lời, “Chốn không lời là muôn tiếng ca”. Đời sau ca ngợi Duy-ma-cật là im lặng sấm sét. Nhưng phải đi qua hết những giai đoạn mà các vị Bồ-tát trình bày ở trên rồi mới đến chỗ này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49711)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34610)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33428)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43898)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57023)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47536)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39410)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38452)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52908)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36583)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32225)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40431)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43460)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31436)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46692)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36158)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28680)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29211)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31861)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28792)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33341)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29106)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60965)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39715)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26638)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29638)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37340)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40064)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26823)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42627)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37266)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28272)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28880)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26387)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27153)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26174)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34597)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27791)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30450)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33250)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28545)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30052)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25473)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21826)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51268)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26702)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28600)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27686)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24336)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27448)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31904)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30169)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27675)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35404)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27426)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29989)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31736)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22989)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24166)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23006)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant