Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

11- Bồ Tát Hạnh

14 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 7432)
11- Bồ Tát Hạnh

BỒ TÁT CÓ BỆNH
BIÊN SOẠN VỀ KINH DUY MA CẬT

Thích Nữ Như Đức

Bồ Tát Hạnh

1- Sự thay đổi ở vườn Yêm-la

Chủ yếu của kinh Duy Ma Cậtthuyết minh về hạnh Bồ-tát, hạnh rộng lớn nguyện làm đẹp cuộc đời. Từ tâm địa thấp nhỏ của phàm phu muốn đổi sang tâm rộng lớn, cần có một sự chuyển biến. Những phẩm trước, phần chuẩn bị đã xong, đến phẩm này chính thức xuất hiện tâm nguyện Bồ-tát. Cho nên đất đai hốt nhiên rộng lớn đẹp đẽchúng hội cũng đều sáng chói như vàng ròng. Điều này cho thấy phù hợp với câu mở đầu của kinh, là “Tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh”. Tâm nguyện rộng lớn là điều kiện căn bản cho hạnh Bồ-tát, tâm rộng cho nên đất đai vườn tược rộng, điều đó báo trước rằng Bồ-tát sẽ đến, nên trong văn kinh Phật bảo A-nan:

- Duy-ma-cật, Văn-thù và đại chúng muốn đến thăm ta.

Ở bên thành Tỳ-da-ly, Văn-thù cũng nói với Duy-ma rằng:

- Nên đi, nay chính là đúng lúc. Có nghĩa là tâm mọi người đã đến đúng thời phát khởi.

Duy-ma-cật dùng thần lực đem hết cả đại chúng cùng tòa ngồi, để trong tay hữu mà đưa đến trước Phật. Sự di chuyển quá ư dễ dàng. Bởi vì nhà thiền có câu: “Tất cả cõi nước nằm trong con mắt của sa-môn”, tâm lượng nhỏ hẹp nên phân biệt đây kia ngăn trở, khi tâm lượng dung thông thì chốn chốn nơi nơi đều là nhà mình. Biểu hiện thần thông của Duy-ma-cật cho thấy là vừa phát ý liền đến, vừa mở tâm liền rộng, chẳng có giới hạn.

Các chúng Bồ-tát đến nơi đảnh lễ Phật, ngồi yên nơi tòa. Phật hỏi ngài Xá-lợi-phất:

- Ông thấy hành động thần lực tự tại của Bồ-tát chăng?

Ngài Xá-lợi-phất xác nhận đó là điều không thể đo lường, không thể nghĩ bàn. Vì trí hiểu biết hạn cuộc thế gian không thể nào thông cảm được tâm Bồ-tát, như khi chúng ta đọc chuyện tiền thân Phật bố thí thân mình cho cọp đói, chúng ta vẫn không nghĩ ra có người như vậy. Trong cái vô biên vô cùng thì kiến thức chúng ta như con đom đóm, chỉ có Bồ-tát với Bồ-tát mới thông cảm. Và các Ngài khuyên mình “Đừng suy nghĩ đo lường”, tắt hết so đo mới đến được cõi Phật.

2- Giá trị cơm Hương Tích

Ngài A-nan bỗng nghe mùi hương lạ, trước chưa từng có, nên hỏi Phật. Phật bảo là mùi hương từ lỗ chân lông của các vị Bồ-tát. Bồ-tát đến cõi này trang nghiêm quốc độ, đem mùi hương đến giới thiệu. Mùi hương không phát xuất từ nước hoa, mỹ phẩm tầm thường, mà phát xuất từ cơm Hương Tích. Cơm đó có công năng làm Phật sự, như một chất liệu Phật pháp, chúng sanh nương nơi cơm pháp này thành tựu đạo nghiệp. Duy-ma-cật bảo với A-nan về giá trị của cơm Hương Tích, tùy theo người ăn:

- Nếu là hàng Thanh văn chưa đắc quả, ăn cơm ấy đắc Tứ quả, cơm mới tiêu – Không phải là loại cơm khó tiêu, nhưng vì còn lậu hoặc nên cơm không tiêu, ý là như thế.

- Người chưa phát ý Đại thừa thì ăn cơm này đến khi phát ý Đại thừa mới tiêu.

- Người đã phát ý, ăn cơm này đến khi được Vô sanh nhẫn mới tiêu.

- Người được Vô sanh nhẫn ăn cơm này đến địa vị Nhất sanh bổ xứ (Là Bồ-tát còn một đời thành Phật) mới tiêu.

Như vậy ăn cơm này chỉ có tiến chớ không lùi, giúp người tu tiến thẳng tới chỗ rốt ráo. Cơm dùng để nuôi sống thân mạng, mà cơm đây nuôi sống Sự giải thoát, khi nào còn một chút triền phược thì pháp môn tu tập vẫn còn cần thiết như cơm cần cho người.

3- Những phương tiện Phật sự

Nhân một bát cơm cõi Phật Hương Tích có thể làm Phật sự lớn lao, đức Phật giới thiệu những phương tiện của chư Phật dùng để hóa độ chúng sanh, ứng hợp căn cơ ý thích của mỗi loài mỗi cõi mà có ra những cách thức làm Phật sự.

Có cõi nước dùng ánh sáng của Phật, như chúng ta dùng đèn trang trí tượng Phật, tạo nghiêm sức và gây tín tâm cho người, cũng là dùng ánh sáng làm Phật sự

Có cõi nước dùng các vị Bồ-tát làm Phật sự, Bồ-tát như các vị hảo tâm, các nhà từ thiện nguyện cứu trợ chúng sanh. Dùng người biến hóa của Phật, Phật thường ẩn đi thân tướng hảo, để các hóa thân ứng hợp với tâm chúng sanh, vì người biến hóa thì thiên hình vạn trạng. Một người Châu Phi chỉ cảm phục người Châu Phi, cũng có vị bác sĩ Tây phương hy sinh vào nước chậm tiến để cứu độ, đó cũng là người biến hóa của Phật.

Dùng các hình thức như cây Bồ-đề, y phục ngọa cụ của Phật để làm Phật sự, như chúng ta chiêm bái Thánh tíchkhởi tâm cảm mến.

Cho đến dùng hư khônglàm Phật sự. Hư không như nhiên chẳng đến chẳng đi, buông hết mọi thứ để tâm trống rỗng như hư không thinh lặng, cũng là một cách tu.

Dùng các thứ vô thường mau chóng chợt có chợt không, hoặc là không thật như giấc mộng, những cách này dễ tác động đến tâm lý chúng sanh. Có chứng kiến ảo ảnh thay đổi, có thấy được sự phù du, như tấn tuồng trên sân khấu, chúng ta mới thức tỉnh mà lo tu tập.

Nói rằng tất cả cách thức chúng ta gặp hoặc mọi oai nghi ngồi đứng của chư Phật đều là Phật sự, cho đến trần lao phiền não cũng đáng trân trọng, vì đó là hình ảnh Phật sự. Đó là với tâm Phật thì nhìn đâu cũng là Phật. Phần này Phật giới thiệu những phương tiện giáo hóa, cũng là muốn nhắc nhở chúng ta khi tiếp cận với đời sống hằng ngày, mọi âm thanh sắc tướng đều là con đường đưa chúng ta vào đạo. Ngài Linh Vân thấy hoa đào mà ngộ, ngài Hương Nghiêm nghe tiếng sỏi, một ngón tay của Câu Chi, Thủy Lão ăn một cái đạp của Mã Tổ… Tất cả đều là Phật sự, đều đưa người qua một phen chuyển biến, đều biến đất đai thành vàng ròng.

4- Vào pháp môn của tất cả chư Phật

Chư Phật dùng ngay cái mỏi mệt sợ hãi của chúng sanh về Tứ ma, về tám muôn bốn ngàn phiền nãolàm Phật sự. Ngay phiền não tức thành Bồ-đề. Lục Tổ nói:

Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích Bồ-đề
Kháp như cầu thố giác.

Để đánh tan ý niệm quý tiện sang hèn, phân biệt kia đây, ở đầu phẩm đã ảnh hiện sự dung thông. Đến đây đức Phật nhắc lại.

Bồ-tát vào pháp môn này, pháp môn Bất nhị, khi thấy tất cả cõi Phật trang nghiêm đẹp đẽ thì đừng lấy đó làm mừng, không tham trước không tự hào. Khi Bồ-tát thấy tất cả cõi Phật nhơ uế đừng sanh tâm ưu sầu, e ngại, tiêu trầm (thối lui).

Một câu này cũng cảnh tỉnh chúng ta, đối trước mọi cảnh tượng đẹp xấu đừng cho là quan trọng. Nên xem tất cả là Phật độ, là việc Phật, là hình ảnh Phật. Như thế mới mạnh dạn bước vào đời, phát tâm làm việc lợi ích. Nếu chọn lựa thì chắc là không ai thích ở uế độ, không thành tựu được hạnh Bồ-tát.

Phật nhấn mạnh rằng: Công đức của chư Phật bình đẳng, vì giáo hóa chúng sanh mà hiện Phật độ không bình đẳng. Có nghĩa là cõi nào cũng cõi Phật, không cần ưa đây chán kia. Một đóa hoa bên đường giá trị bao nhiêu? Như một cõi Phật không kém.

Ba câu:

- Câu thứ nhất là Tam-miệu Tam Phật-đà.

- Câu thứ hai là Đa-đà A-già-độ.

- Câu thứ ba là Phật-đà.

Ba câu này, ý nghĩa như nhau, đồng nói đến thân tướngdiệu dụng công năng của chư Phật đồng nhau. Ý nghĩa này dù nói đến tận kiếp số cũng không hết, vì còn dùng ngôn ngữ văn tự là còn giới hạn, vì mỗi hạt bụi là một cõi Phật với sức biến hóa không lường, trùm khắp xưa nay.

Ngài A-nan bạch Phật rằng: “Con từ nay không dám tự cho mình là đa văn”. Đây chỉ là tượng trưng cho việc xả bỏ Thanh văn mà hướng về Bồ-tát, nên Ngài từ chối danh vị của mình. Phật khuyến khích thêm bằng cách giới thiệu trí tuệ của Bồ-tát. Biển sâu còn có thể đo lường, nhưng thiền định, trí huệ, tổng trì, biện tài, công đức của Bồ-tát không thể đo lường.

Một chút thần thông của Duy-ma-cật đây, tất cả hàng Thanh văn biến hóa hết sức trong trăm ngàn kiếp, cũng không làm được.

5- Pháp môn Tận Vô tận giải thoát

Các Bồ-tát nước Chúng Hương xin đức Phật dạy cho vài pháp môn để trở về nước mình.

Phật dạy pháp môn: Tận Vô tận giải thoát. Tận là hữu vi, Vô tậnvô vi, pháp môn này giải thoát cả hữu vi vô vi, vượt ra ngoài hữu vivô vi.

Hữu vi là các pháp có hình tướng hoại diệt. Bồ-tát đi vào pháp môn bất tận hữu vi nghĩa là không để pháp hữu vi chấm dứt, chấp nhận hình tướng sanh diệt của chúng sanh. Thế nên đi vào đời mà không bỏ đại từ, đại bi, giáo hóa chúng sanh không chán mỏi. Chúng sanhtượng trưng cho tất cả phiền lụy bất an, Bồ-tát vì đã có chí kiên quyết nên vào chốn sanh tử không sợ sệt, đối với vinh nhục không buồn vui. Đó là thái độ:

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(TS. Vạn Hạnh)

Đối với sanh tử luân hồi tưởng như đi dạo trong lầu các. Có người hỏi thiền sư:

- Hòa thượng sau khi chết đi về đâu?

- Làm lừa làm ngựa.

- Rồi sau đó?

- Ta vào địa ngục.

- Hòa thượng là bậc đại thiện tri thức vì sao bị vào địa ngục?

- Ta không vào đó thì ai đến giáo hóa ông.

Một câu chuyện này cho thấy ý nghĩa Bồ-tát không chấm dứt Hữu vi, luôn dùng pháp dược của Phật đem giáo hóa chúng sanh, để biến các nơi khổ thành chỗ an vui, luôn ở trong hữu vi mà làm lợi lạc. Đó gọi là Bồ-tát không chấm dứt Hữu vi (Bất tận hữu vi).

Bồ-tát không trụ Vô vi là Bồ-tát không mắc kẹt trong Không. Quán sát vô thường mà chẳng chán thế gian. Quán sát Vô ngã mà luôn dạy người, dù người không thật, ta không thật. Quán lẽ Tịch diệt mà không ở trong Tịch diệt lặng lẽ. Quán vô lậu nhưng chẳng đoạn tuyệt các lậu.

Vô vi được hiểu như là chốn tịch diệt lặng lẽ, nhưng Bồ-tát với đại nguyện độ sanh lại quay về với chỗ rộn ràng sanh tử. Dù trong tâm không vướng mảy trần mà luôn cứu giúp người nghèo khổ. Biết ba cõi như mộng huyễn nhưng không làm ngơ với tiếng kêu cầu của chúng sanh. Biết các pháp hư vọng không thật nhưng luôn tu phước đức, thiền định, trí huệ. Đây là để trừ bệnh chấp Không, vì nếu quán các pháp Không rồi chẳng chịu tu tập, thì nguy hiểm hơn người chấp CÓ để sợ tội.

Tóm lại, Hữu vi là có, Vô vi là không. Bồ-tát vượt qua cả hai điều có - không, luôn hành hạnh đại bi cứu đời, đó là ý nghĩa bài kệ trong kinh Lăng Già:

Thế gian thường như mộng
Trí chẳng chấp Có - Không
khởi tâm đại bi.

Và cũng là pháp môn chẳng hết Hữu vi chẳng trụ Vô vi trong phẩm này.

Các Bồ-tát nghe Phật dạy xong, khen ngợi tán thán rồi trở về nước của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31319)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26211)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27505)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27877)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26692)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31190)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20246)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22884)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30019)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21542)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20219)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22627)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20736)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30272)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28755)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34694)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44194)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35486)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22518)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21341)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20659)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24744)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37877)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19015)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19306)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21784)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20853)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35084)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32588)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28910)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43114)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34911)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43885)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37852)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21314)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43006)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48995)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39812)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53767)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36807)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40782)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49719)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47293)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27675)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27013)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27213)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24062)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20832)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22446)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25087)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25817)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22933)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22459)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21738)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23309)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21152)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant