Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lược Giải

15 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6148)
Lược Giải

KINH ĐẠI BÁT NHÃ TOÁT YẾU
Ngài Tam tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP, dịch chữ Phạn ra chữ hán 
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lược giải 

LƯỢC GIẢI 

Nguyên đề mục kinh nà có mười chữ: 

"Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh"; gọi tắt là:Tâm kinh" 

MA HA:Trung Hoa dịch âm chữ Phạn "Maha", dịch nghĩa là "Đại" (lớn), Đa (nhiều) và "thắng" (hơn). 

BÁT NHÃ:Trung Hoa dịch âm chữ Phạn "Prajnà"; vì không có chữ dịch cho cân xứng, nên chỉ dịch nguyên âm (Bát Nhã). 

Bát Nhã có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sáu nghĩa: 

1. Viễn ly: Xa lìa các vô minh phiền não vọng chấp 

2. Minh: Sáng, không mờ tối 

3. Trí: Thông suốt 

4. Huệ: Sáng tỏ 

5. Trí huệ: Sáng tỏ thông suốt 

6. thanh tịnh: Trong sạch không nhiễm ô

Bát Nhã có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa thì không được đúng lắm, nẹ6n các dịch giả chỉ để nguyên âm chữ Phạn. 

Tuy nhiên, trong sáu nghĩa trên đây, nếu đem so sánhcân nhắc, thì có thể dùng tạm nghĩa "Trí huệ", vì nghĩa Trí huệ có phần rõ ràng vá xác đáng hơn hết. 

Nhưng, cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ các loại Trí huệ sau đây, mới đúng với nghĩa của chữ "Bát Nhã". 

1. Trí huệ thế gian: Trong thế gian, những người học rộng thấy xa, thông minh lanh lợi khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi phương diện, thiên hạ gọi là người "Trí huệ". Nhưng Trí huệ đó là Trí huệ của thể tục phàm phu, không phải là "Trí huệ Bát Nhã". 

2. Trí huệ ngoại đạo: Chúng ngoại đạo tu thiền định lâu ngày cũng có Trí huệ (xem bài Thiền tôn trong Bộ Bản đồ tu Phật ) biết được việc quá khứ hiện tạivị lai, thần thông biến hoá vô cùng, nhiều pháp kỳ lạ. Nhưng Trí huệ đó là tà Trí huệ, không phải "Trí huệ Bát Nhã". 

3. Trí huệ Nhị thừa: Hàng Thinh văn và Duyên giác do tu pháp Tứ đếThập nhị nhơn duyên mà đặng đạo quả. Các vị nàyđã khỏi sanh tử luân hồi, thần thông tự tại và có Trí huệ biết được việc quá khứ hiện tạivị lai

Nhưng Trí huệ đó thuộc về Trí huệ Tiểu thừa, chỉ thấy về "ngã không chơn như" (thiên không), chớ chưa thấy được "pháp không chơn như", nên cũng không phải "Trí huệ Bát Nhã". 

Trừ ba loại Trí huệ trên, duy có Trí huệ của Phật hay của Đại thừa Bồ Tát, mới phải là "Trí huệ Bát Nhã". 

Công dụng của Trí huệ Bát Nhã, như mặt trời chiếu phá các mây mù vô minh vọng chấp (ngã, pháp). Bởi thế nên Trí huệ Bát Nhã chiếu soi các pháp, thì pháp nào cũng đều bỏ hình giả dối, mà hoàn lại tướng chơn thật. Tướng chơn thật của các pháp đã hiện, tức là chơn như hay chơn lý của vũ trụ hiện ra vậy. 

Trí huệ Bát Nhã saün có trong mổi chúng sanh từ vô thỉ đến nay, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập mà thành. Dù ở địa vị phàm phu, nó cũng không giảm, dù chứng quả thánh, nó cũng không tăng. Nó không bị các vô minh phiền não phá hoại, trái lại còn phá tiêu tất cả vô minh phiền não từ vô thỉ đến nay. Nó phá một cách dễ dàng và rốt ráo, như gió thổi mây bay, như mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nên gọi là "Bát Nhã Ba La Mật Đa" (Trí huệ rốt ráo). 

Trí huệ Bát Nhãcông năng như chiếc thuyền, đưa chúng sanh từ bên này bờ mê muôi triền phược của phàm phu, đến bên kia bớ giác ngộ giải thoát của chư Phật, nên Cổ nhơn cũng gọi là "thuyền Bát Nhã". 

Muốn giản biệt Trí huệ Bát Nhã, để khỏi lầm lộn với Trí huệ của phàm phu, ngoại đạoTiểu thừa, chúng tôi dịch nghĩa chữ "Bát Nhã" như sau: 

1. Trí huệ Phật (Trí huệ của Phật tánh hay chơn tâm

2. Trí huệ Bát Nhã (dùng cả chữ Phạn và chữ Hán) 

3. Trí huệ rốt ráo (Bát Nhã Ba la mật

Bát Nhã có ba loại: 

a. Văn tự Bát Nhã: tức là "học Bát Nhã". Hành giả nhờ học văn tự nghĩa lý kinh Bát Nhã mới ngộ được Lý tánh Bát Nhã cũa mình. 

b. Quán chiếu Bát Nhã: Tức là "tu Bát Nhã". Sau khi đã ngộ được Lý tánh Bát Nhã, hành giả phải tu tập; nghĩa là quán sát chiếu soi các pháp đều "không" 

c. Thật tướng Bát Nhã: Tức là "Chứng Bát Nhã". Sau khi tu tập, đến lúc công viên quả mãn rồi, hành giả chứng được tướng chơn thật của Bát Nhã

Tu chứng Bát Nhã có ba giai đoạn: 

1. Gia hạnh Bát Nhã: Tăng gia công hạnh tu Bát Nhã. Nghĩa là sau khi hạ thủ công phu tu tập, hành giả phải tăng gia công hạnh, mới đặng Trí huệ Bát Nhã

2. Căn bản Bát Nhã: Tức là thể tánh Bát Nhã, tuy saün có trong mỗi chúng sanh, nhưng phải nhờ có tu hành mới được hiển lộ

3. Hậu đắc Bát Nhã: Tức là diệu dụng Bát Nhã, do hành giả sau khi chứng đặng "căn bản Bát Nhã" rồi mới được diệu dụng này. 

*** 

BA LA MẬT ĐA: Trung Hoa dịch âm chữ Phạn "Paramita", có hai nghĩa

1. Đáo bỉ ngạn: đến bờ bên kia. Trí huệ Bát Nhãcông năng đưa chúng sanh từ bờ mê muội triền phược của phàm phu bên này, qua đến bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật bên kia, nên gọi là "Bát Nhã Ba La Mật Đa" 

2. Cứu cánh viên mãn: hoàn toàn rốt ráo. Theo tục ngữ Ấn Độ, phàm làm việc gì khi đã hoàn toàn viên mãn, thì gọi là "Ba La Mật Đa". Trí huệ Bát Nhãloại Trí huệ đã rốt ráo viên mãn, nên gọi là "Bát Nhã Ba La Mật Đa". 

TÂM:Chữ "Tâm" có nhiều nghĩa: 

1. Tâm: Quả tim, như "tâm can tỳ phế thận"; 

2. Tâm: Chứa nhóm và sanh khởi, như "tập khởi tâm"; 

3. Tâm: Chứa nhóm, như "Tập tích tâm"; 

4. Tâm: Sanh diệt không gián đoạn, như "đẳng vô gián tâm"; 

5. Tâm: Nhớ nghĩ lo lường, như "tư lương tâm"; 

6. Tâm: Rõ ràng phân biệt, như "minh liễu phân biệt tâm"; 

7. Vọng Tâm: Tâm hư vọng sanh diệt

8. Chơn Tâm: Tâm chơn thật, như "bản thể chơn tâm"; 

9. Tâm: Toát yếu hay tinh yếu, như chữ "trọng tâm". 

Tóm lại, chữ "tâm" tuỳ ở trong đề mục kinh này, thì nên dùng nghĩa "tinh yế", "toát yếu" hay "trong tâm" mới là chính xác. Vì Phật nói kinh Đại Bát Nhã đến 600 quyển, trải qua thời gian 22 năm mới rồi (nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm); kinh này (chỉ có 260 chữ) là trong tâm hoặc toát yếu hay tinh yếu của kinh Đại Bát Nhã, nên gọi là "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh". 

*** 

KINH: kinh điển hay giáo lý, do Phật hoặc Bồ Tát nói ra. Chữ "kinh" có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại cóp ba nghĩa như sau: 

1. Thường: Không thay đổi. Chơn lý của Phật không thay đổi, dù Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều nói chơn lý như vậy. 

2. Dường canh: Đường chỉ xuôi trong tấm vải. Nhờ sợi chỉ xuôi, xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. Còn kinh là sự tổng hợp ghi chép các lời nói của Phật hoặc Thánh hiền

3. Hợp (khế): Kinh Phật hợp với "chơn lý của vũ trụ" và hợp với "căn cơ trình độ của chúng sanh". Cũng một bộ kinh, mà tuỳ theo trình độ của mỗi người jẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ cao thấp không đồng, nhưng y theo kinh tu hành, đều được khỏi khổ sanh tử luân hồi, không sót một người nào. Kinh Phật có những đặc điểm như vậy, nên gọi là "khế kinh". 

Tóm lại, "Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa tâm kinh" là "Kinh toát yếu kinh Đại Bát Nhã". 

Nói về danh, Tướng, Thể, Dụng của kinh này: 

Danh: tên kinh này dùng pháp "Bát Nhã" làm tên 

Tướng: Kinh này lấy "Đại thừa" làm giáo tướng

Thể: Kinh này lấy "Thật tướng" làm thể 

Dụng: Kinh này lấy "độ thoát khổ ách" làm dụng 

Tôn chỉ: Kinh này lấy "quán chiếu" làm tôn chỉ 

*** 

Tên của dịch giả: Ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang

TAM TẠNG PHÁP SƯ: Tam tạng là ba kho tàng; vì có công năng trùm chứa văn nghĩa của Phật pháp, nên gọi là "Tạng". 

1. Kinh tạng chép những lời Phật dạy hay những lời của các vị Bồ Tát nói ra. 

2. Luật tạng chép những giới và luật của 7 chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Thức xoaƯu bà tắc, Ưu bà di

3. Luận tạng chép những nghị luận chánh tà, phân biệt chơn vọng của các vị Bồ Tát và chư Tổ. 

Thầy giảng Kinh thì gọi là "Pháp sư" 

Thầy giảng Luật thì gọi là "Luật sư" 

Thầy giảng Luận thì gọi là "Luận sư" 

Ngài Huyền trang thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh, Luật, Luận nên gọi Ngài là "Tam Tạng Pháp sư" (vị Pháp sư thông suốt ba tạng). 

HUYỀN TRANG: Ngài họ Trầøn tên Vĩ ở đất Yên sư, tỉnh Lạc Dương. Ngài rất thông minh, xuất gia khi 13 tuổi, học đủ kinh điển. Đến năm Trinh Quán thứ ba, Ngài phát tâm qua Ấn Độ học Phật pháp đén 15 năm, rất thông về "pháp tướng Duy thức học". Ngài học được 657 bộ kinh. Đến năm Trinh Quán thứ 19, Ngài về Trung Hoa. Vua Đường Thái Tôn rất mừng, thỉnh Ngài ở lại chùa Hoàng Phước dịch kinh. Ngài dịch được 75 bộ, cộng là 1335 quyển. Ngài hưởng thọ 75 tuổi. Vua Cao Tôn dựng tháp Ngài thao kiều Ấn Độ tại chủa Từ Ân, công đức của Ngài thật là vô tận. (xem bộ Huyền Trang do Võ đình Cường soạn, Hương Đạo xuất bản) 

Kinh này có năm nhà dịch từ chữ Phạn ra chữ Trung Hoa, nhưng bản dịch của Ngài Huyền Trang truyền bá được thạnh hành hơn hết. 

*** 

PHẦN DUYÊN KHỞI 

CHÁNH VĂN 

Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã rồi, thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhã), nên không còn các khổ. 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn thứ nhứt, nói: Bồ Tát dùng Trí huệ Bát Nhã, thấy các pháp đều không (Bát Nhã) nên không còn các khổ. 

Tất cả chúng sanh vì mê bản thể chơn tâm thanh tịnh của mình, nên vọng hiện rathế giớichúng sanh.cũng như ngưới mê ngủ chiêm bao, nên thấy có các cảnh vật. 

Chúng sanh chấp các cảnh vật đó là thật, nên khởi ra tham, sân, si tạo đủ các nghiệp, rồi sanh tử luân hồi chịu đủ kiểu khổ sở. Cũng như người dương chiêm bao, vì chấp cảnh vật trrong chiêm bao là thật, nên sanh ra vui buồn đủ chuyện. 

Bồ Tát dùng Trí huệ Bát Nhã, thấy rõ các pháp (thế giới, chúng sanh) đều không, do vô minh vọng tưởng hiện ra, nên Bồ Tát không còn bị các khổ bởi vô minh vọng tưởng. Cũng như người đã thức giấc chiêm bao, thấy rõ cá cảnh vật trong chiêm bao đều không có, nên không cò bị khổ vui bởi cảnh chiêm bao

Tóm lại, chúng sanh vì chấp năm uẩn thật có, nên mới chịu các hkhổ sở. Bồ Tát dùng Trí huệ Bát Nhã thấy năm uẩn đều không, nên không còn bị các khổ. 

GIẢI DANH TỪ 

QUÁN TỰ TẠI BỔ TÁT: NGÀI Huyền Trang Pháp sư dịch là "Quán Tự Tại Bồ Tát"; Cựu dịch: "Quán Thế Âm Bồ Tát" 

Quán Tự Tại, có hai nghĩa: 1. Quán rõ các pháp đều do tâm biến hiện, nên chúng sanh được quả tự tại, 2. Quán biết căn cơ của chúng sanh, nên sự giáo hoá được tự tại

BỔ TÁT: Trung Hoa dịch tắt chữ "Bồ Đề Tát Đoả". "Bồ Đề" dịch là "Giác"; "Tát đoả" dịch là "Hữu tình"; nghĩa là chúng hữu tình đã được giác ngộ. Có ba nghĩa: 

1. Phần tự lợi:Tức là "Hữu tình giác", nghĩa là chúng hữu tình đã giác ngộ, nhưng chưa được hoàn toàn như Phật. Vì cò vi tế sở tri ngu, nên giác mà còn hữu tình

2. Phần lợi tha: Tức là "Giác hữu tình"; nghĩa là phần minh đã giác ngộ, rồi giác ngộ cho chúng sanh

3. Phần tự lợi, tự tha: Tức là "Tự giac, giác tha"; nghĩa là trên cầu đạo Phật để giác ngộ cho mình, dưới giáo hoá chúng sanh

Nghĩa thứ nhứt, túc là "Trí", nghĩa thứ hai tức là "Bi", nghĩa thứ ba cả Bi và Trí. Bồ Tát "Bi, Trí" gồm đủ. "Lý, Sự" vô ngại, nên gọi là "Quán Tự Tại Bồ Tát". 

ĐI SÂU VÀO TRÍ HUỆ BÁT NHÃ:Tức là Bồ Tát đã thâm nhập Trí huệ Bát Nhã

NĂM UẨN ĐỀU KHÔNG: Hàng Nhị thừa phá cái chấp ngã; nhưng cò chấp pháp; nghĩa là thấy không có "ngã", nhưng còn năm uẩn. Hàng Đại thừa Bồ Tát, thì ngã pháp đều phá; nghĩa là ngã đã không mà năm uẩn cũng không. 

Năm uẩn là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Ngài Huyền Trang dịch là "ngũ uẩn". Chữ "uẩn" là "chứa nhón"; nghĩa là năm món này tích tụ chứa nhóm làm thân và làm tâm. 

Cựu dịch là "ngũ ấm". Chữ "Ấm" là che đậy; nghĩa là năm món này che đậy chơn tâm thanh tịnh, như mây che mặt nhựt. 

Tóm lại, tất cả sự vật trong vũ trụ, không ngoài thế giớichúng sanh. Thế giới chúng sanh không ngoài Sắc (vật chất) và Tâm (tinh thần). 

Sắc tức là sắc uẩn: tâm tức là tâm uẩn: thọ, tưởng, hành, thức. Bởi thế nên nói "năm uẩn đều không", tức là nói "thế giới và chúng sanh hay tất cả sự vật trong vũ trụ đều không". 

KHỒ: các khổ vô biên nhưng tóm lại có ba món khổ: khổ khổ, hoại khổhành khổ; hay tám món khổ là: sanh khổ, lão khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ, cầu bất đắc khổ (xem Khổ đế trong quyển Tứ Diệu Đế, do hương Dạo xuất bản). 

*** 

PHẦN CHÁNH TÔN 

CHÁNH VĂN 

Ngài gọi ông Xá Lợi Tử dạy rằng: "Này Xá Lợi Tử ! năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chẳng khác với "không" (Bát Nhã), "không" chẳng khác với năm uẩn tức là "không" (Bát Nhã), "không" tức là năm uẩn

LƯỢC GIẢI 

Đại ý đoạn này nói: Năm uẩn tức là: "không" (Bát Nhã), "không"tức là năm uẩn

Nói năm uẩn tức là nói tất cả các pháp. Tất cả các pháp có hai phần: Tánh và Tướng. Tánh của các pháp thì không có hình tướng. Kinh gopị là "không tướng" (thị chư phàp không tướng). Bởi "không tướng" nên không sai khác, không sanh diệt, không hư hoại v.v...cũng gọi là thật tướng, chơn tướng, chơn tánh, chơn không, chơn như hay chơn tâm v.v... 

Tướng của các pháp thì có hình tướng, như năm uẩn hay các pháp sai khác, có sanh diệt, hư dối không thật, rốt cuộc hoàn không. Kinh chép: "Ngũ uẩn giai không". 

Thí dụ như vòng, kiềng, xoa, xuyến là "tướng" của vàng; băng, tuyết, mù sương, nước đá là "tướng" của nước, đều có sanh diệt, hư giả không thật, rốt cuộc đều trở về không. Còn "tánh" của vàng hay "tánh" của nước thì không có các tướng:dài, ngắn, vuông, tròn v.v...(dụ cho không tướng). Vì "không tướng" nên không sanh diệt hư hoại; dụ như thật tướng, chơn tướng hay chơn không v.v...(Đây chỉ là thí dụ cho dễ hiểu, chứ không phải "vàng" hay "nước" là thật tướng hay chơn tướng v.v...). 

Đoạn kinh này có hai từng đạo lý, cạn và sâu khác nhau. Từng đạo lý thứ nhất, dùng hai chữ "chẳng khác": 

Năm uẩn "chẳng khác" với không 

Không "chẳng khác" với năm uẩn

Nghĩa là đem "năm uẩn" với "chơn không" để so sánh nhau: Lấy "năm uẩn" so sánh với "chơn không" không khác; và lấy "chơn không" để so sánh với:năm uẩn"cũng không khác. Tuy không khác, nhưng có người hiểu: vẫn còn một bên "năm uẩn" và một bên "chơn không". Cũng như nói "sóng và nước không khác", nhưng vẫn còn chấp; sóng và nước hai thứ riềng biệt. 

Đến từng đạo lý thứ hai, có phần sâu hơn, lại dùng hai chữ "tức là": 

Năm uẩn "tức là" không 

Không "tức là" năm uẩn

Nghĩa là: "năm uẩn" tức là "chơn không", "chơn không" tức là "năm uẩn". Năm uẩn với chơn không, không còn hai phần riêng biệt nữa. Cũng như nói: sóng tức là nước, nước tức là sóng, không có riêng khác. 

Từng đạo lý thứ nhứt nói: Năm uẩn "chẳng khác" với Không, Không "chẳng khác" với Năm uẩn, tức là nói: 

Tướng của các pháp "chẳng khác" với tánh của các pháp. Tánh của các pháp "chẳng khác" với Tướng của các pháp. Cũng như nói: Kẹo (tướng) "không khác" với đường (tánh); Đường "không khác" với kẹo. 

Từng đạo lý thứ hai nói: Năm uẩn "tức là" Không. Không "tức là" Năm uẩn; tức là nói: 

Tướng của các pháp "tức là" Tánh của các pháp. Tánh của các pháp "tức là" Tướng của các pháp. Cũng như nói: Kẹo (tướng) "tức là" Đường (tánh); Đường "tức là" kẹo. 

Muốn rõ thêm đoạn kinh này, chúng tôi xin thí dụ như sau: Như người mê ngủ chiêm bao (dụ chúng sanh mê muội) thấy các cảnh vật khô vui v.v...Vì mê mộng nên họ chấp các cảnh vật ấy là thật, rồi cũng vui buồn cười khóc v.v... 

Trái lại, người thức (dụ Bồ Tát tu Trí huệ Bát Nhã) thấy các cảnh chiêm bao kia đều không (ngũ uẩn giai không) nên không bị cãnh chiêm bao làm cho họ khổ sở (độ nhứt thế khổ ách). 

Người thức kia (dụ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát) biết rằng: Vì tâm chiêm bao hiện ra các cảnh chiêm bao, nên nói: 

"Cảnh chiêm bao (sắc) "không khác" với tâm chiêm bao (không), Tâm chiêm bao "không khác" với cảnh chiêm bao; cảnh chiêm bao "tức là" Tâm chiêm bao, Tâm chiêm bao "tức là" cảnh chiêm bao

Lên một từng nữa, Phật day: 

Chúng sanh vì mê bản thể chơn tâm thanh tịnh của mình (chơn không) nân vọng hiện ra thế giớichúng sanh, tức là cảnh giới của chúng ta sống đây (trong kinh cũng gọi là cảnh đại mộng). Rồi chúng sanh vọng chấp cho là cảnh thật, nên cũng mừng giận khổ vui v.v...cũng như người chiêm bao (tiểu mộng) không khác, nên gọi là "mộng tưởng diên đảo). 

Bồ Tát đã giác ngộ (như người thức tỉnh) dùng Trí huệ Bát Nhã (như trí của người thức) thấy cảnh giới của chúng ta đang sống đây là cảnh đại mộng, đều do tâm hiện ra, nên Bồ Tát dạy: "các pháp đều không" (ngũ uẩn giai không), do tâm hiện ra, nên các pháp chẳng khác với tâm (không), tâm chẳng khác với các pháp; các pháp tức là tâm, tâm tức là các pháp". 

Tóm lại, đồng một bản thể chơn tâm thanh tịnh không khác, nhưng chúng sanhvô minh vọng tưởng điên đảo, nên thấy có năm uẩn hay thế giới chúng sanh, rồi theo cảnh đại mộng này mà thọ khổ. 

Trái lại, Bồ Tát đã giác ngộ (người đã thức giấc đại mộng) dùng Trí huệ Bát Nhã thấy cảnh đại mộng này (5 uẩn hay các pháp) đều không, chỉ do tâm hiện ra, nên không còn bị các khổ của cảnh đại mộng nữa (độ nhứt thế khổ ách). 

chúng sanh mê, từ "tánh không" hiện ra "có sắc", nên nói:"sắc, chẳng khác với không", nên nói: " không, chẳng khác sắc", hay không tức là "sắc" 

GIẢI DANH TỪ 

XÁ LỢI TỬ: Có nhà dịch "Xá Lợi Phất" hay "Xá Lợi Phất Đa La". Chữ "phất" đồng nghĩa với chữ "Tử"(con). Ông Xá Lợi Tử là bực đại đệ tử của Phật, Trí huệ thứ nhứt. 

Bà mẹ ông tên Xá Lợi, thông minh xuất chúng, biện luận nổi danh trong xứ, nhứt là trong khi có mang ông. 

Theo phong tục Ấn Độ, thường lấy tên mẹ đặt tên con, nên gọi ông là Xá Lợi Tử (hay Phất); nghĩa là con bà Xá Lợi

Theo bản dịch của Ngài Thi Hộ chép: "Trong khi Đức ThếTôn ở non Linh Thứu nhập định Thậm thâm quang minh, nói chánh pháp Tam ma đề, thì ông Xá Lợi Phất bạch với Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rắng: "Nếu có người muốn tu pháp môn thậm thâm Bát Nhã, thì phải tu như thế nào? Nhơn đó ngài Quán Tự Tại gọi ông Xá Lợi Phất mà giảng nói kinh này". 

SẮC, tức là "sắc uẩn": Các vật chất chứa nhóm lại thành ra những hình tướng, như thân thể và cảnh vật, gọi là "sắc uẩn". 

Sắc uẩn gồm 11 món: Năm căn và sáu trần

Năm căn là: 

1. Nhãn căn: Con mắt 

2. Nhỉ căn: Lỗ tai 

3. Tỹ căn: Lỗ mũi 

4. Thiệt căn: Cái lưỡi 

5. Thân căn: thân thể 

Sáu trần là: 

1. Sắc trần: Cảng bị thấy của mắt 

2. Thanh trần: Tiếng bị nghe của tai 

3. Hương trần: Mùi bị ngửi của mũi 

4. Vị trần: Vị bị nếm của lưỡi 

5. Xúc trần: Cảnh bị xúc của thân 

6. Pháp trần: Cảnh bị biết của ý thức; tức là "vô biểu sắc". Sắc này không tiêu biểu ra ngoài, nhưng đối với nội tâm (ý thức) chúng ta có thể thấy rõ ràng

THỌ, tức là "thọ uẩn". Thọ là lãnh thọ. Sau khi tiếp xúc với cảnh rồi, sanh lãnh thọ. Sự lãnh thọ có năm: 1. Thọ khổ, 2. Thô vui, 3. Thọ buồn, 4. Thọ mừng, 5. Thọ không vui buồn. 

TƯỞNG, tức là "Tưởng uẩn". Tưởng là tưởng nhớ hình tượng của các cảnh. Do sau khi tiếp xúclãnh thọ các cảnh khô vui rồi, sanh ra tưởng nhớ. 

HÀNH, tức là "Hành uẩn". Hành là sự thay đổi biến chuyển của tâm niệm. Trong 51 món Tâm sở, trừ Thọ và Tưởng ra, còn 49 món Tâm sở và 24 món Tâm Bất tương ưng, đều thuộc về Hành uẩn

THỨC, thức là "Thức uẩn". Thức nghĩa là hiểu biết phân biệt; có khả năng biến hiện ra các cảnh và phân biệt các cảnh. Thức, chia ra làm tám loại: 

1. Nhãn thức: Cái biết của mắt, phân biệt các cảnh sắc. 

2. Nhĩ thức: Cái biết của tai, phân biệt các tiếng tăm

3. Tỹ thức: Cái biết của mũi, phân biệt các mùi. 

4. Thiệt thức: Cái biết của lưỡi, phân biệt các vị trần

5. Thân thức: Cái biết của thân, phân biệt xúc trần

6. Ý thức: Cái biết của ý, phân biệt các pháp trần (cảnh nội tâm). 

7. Mạt na thức: Cái biết thứ 7, chấp thức thứ 8 làm ngã. 

8. A lại da thức: Cái biết thứ 8, chứa chủng tử các pháp 

Vật chất Sắc Sắc pháp II 

Thọ Tâm sở 51 món 91 pháp 

5 UẨN Tưởng Tâm bất hữu vi 

Tinh thần Hành tương ưng 24 

Thức Tâm Vương 8 

KHÔNG, tức đoạn sau nói "Không tướng". Cái "không" đây, không phải hư không, ngoan không hay cái "không" đối với cái có; cũng không phải thủ tiêu hết các vật hữu hình mà nói là không; và cũng không phải cái"không" của Tiểu thừa (Thiên không). 

Cái "không" đây, tức là bản tánh thanh tịnh không có các hình tướng, nên gọi là "không tướng" (tướng không). Vì nó không sanh diệt, không hư dối, nên cũng gọi là "chơn không" hay thật tướng, chơn tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như v.v... 

Tóm lại, kinh này nói "năm uẩn" tức là bên Duy thức nói "94 pháp hữu vi". Kinh này nói "không" hay "không tướng", tức là bên Duy thức nói "sáu pháp vô vi". 

Kinh này nói: "Sắc chẳng khác với không" hay nói: "Sắc tức là không", là nói"Pháp hữu vi tức là pháp vô vi". 

*** 

CHÁNH VĂN 

Này Xá Lơ Tử ! "Tướng không" (Bát Nhã) của các pháp đây, nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt. 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn kinh này nói: Tánh (Bát Nhã) của các pháp, không sanh không diệt, không cấu tịnh v.v... 

Đoạn thứ nhứt nói:" Năm uẩn đều không", đoạn thứ hai nói:" Sắc chẳng khác với không", hay " sắc tức là không v.v...", đoạn này nói:? tướng không của các pháp"; chữ "Không" ở trong ba đoạn này đều chỉ cho "Trí huệ Bát Nhã", tức là "Tánh" của các pháp. 

"Tánh" của các pháp khônghình tướng: không có tướng sanh, không có tướng diệt, không có tướng cấu nhiễm của phàm phu, không có tướng thanh tịnh của chư Phật. Khi ngộ nó không thêm, lúc mê nó cũng không bớt. Bởi thế nên cũng gọi là "không tướng" (tướng không), chơn tướng, thật tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như, chơn không hay thật tướng Bát Nhã v.v... 

Tóm lại, "Tánh" của các pháp là "chơn tâm thanh tịnh sáng suốt", không có các hình tướng, nên gọi là "không tướng" hay "Bát Nhã chơn không". 

GIẢI DANH TỪ 

Pháp: Chỉ chung cho tất cả sự vật: tinh thần, vật chất, hữu hình vô hình, hữu vi vô vi, thánh phàm v.v...Chẳng những bàn ghế v.v...là "pháp", cho đến hư không cũng là "pháp". Bóng trong gương, trăng dưới nước là "pháp", mà lông rùa, sừng thỏ cũng là "pháp", cho đến tư tưởng tâm niệm cũng là "pháp". Phàm những cái gì, tự nó giữ được cái bản chất của nó làm cho người biết được nó là cái gì, thì đều gọi là "pháp". 

Tóm lại, nói rộng là "tất cả pháp", nói hẹp là "năm uẩn?. Nói "năm uẩn là chơn không" tức là nói "các pháp là chơn không". Chính ở nơi các pháp mà nhận tướng "chơn không", chẳng phải ngoài các pháp, riêng có một tướng chơn không". 

*** 

CHÁNH VĂN 

Bởi thế nên, trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có 5 uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có 6 căn là: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý; không có 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; không có 6 thức là: nhãn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thứcý thức

LƯỢC GIẢI 

Đoạn kinh này nói: Trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có các pháp thế gian

Vì "Tướng không" của các pháp (Bát Nhã) không sanh diệt, không cấu tịnh, không tăng giảm v.v...nên trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có 5 uẩn, mười hai xứ (6 căn, 6 trần), mười tám giới (6 căn, 6 trần, 6 thức) . cũng như trên màn bạc (dụ Tướng không) không có các hình ảnh

Thật ra, nói "năm uẩn" tức là gồm cả mười hai xứmười tám giới; trái lại, nói "mười hai xứ", cũng gồm cả năm uẩnmười tám giới; hay nói "mười tám giới" cũng gồm cả mười hai xứnăm uẩn

Sở dĩ phân chia riêng khác như vậy, là vì Phật phá sự chấp ngã của chúng sanh: Người chấp nặng về phần tinh thần (tâm) là Ngã, thì Phật nói "năm uẩn", chia chẻ tinh thần (tâm) ra làm bốn phần là: thọ, tưởng, hành và thức để phá chấp. Còn "Sắc" không cần chia chẻ. 

Người chấp nặng về phần vật chất (chấp thân) là Ngã, thì Phật nói "mười hai xứ", chia chẻ sắc ra làm 12 phần là 6 căn và 6 trần, để phá chấp

Người chấp cả tinh thần (tâm) và vật chất (sắc) làm Ngã, thì Phật nói "mười tám giới" chia chẻ cả tinh thầnvật chất ra làm 18 phần là 6 căn, 6 trần và 6 thức để phá chấp

Tóm lại, trong Bát Nhã (Tướng không) không có các pháp của thế giannăm uẩn, sáu căn, sáu trần và sáu thức. 

GIẢI DANH TỪ 

NĂM UẨN: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ nhứt, về câu "năm uẩn đều không"). 

SÁU CĂN: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ hai, về câu "sắc tức là sắc uẩn"). 

SÁU TRẦN: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ hai, về câu "sắc tức là sắc uẩn"). 

SÁU THỨC: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ hai, về chữ "Thức tức là thức uẩn). 

*** 

CHÁNH VĂN 

Không có mười hai nhơn duyên, nghĩa là không có "vô minh", và cũng không có "hết vô minh", cho đến không có "lão tử" và cũng không có "hết lão tử". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn kinh này nói:Trong "Tướng không (Bát Nhã) không có 12 nhơn duyên là pháp tu xuất thế gian của Thánh Duyên giác. 

Trong Bát Nhã chơn không, cũng không có 12 nhơn duyên: Về phần lưu chuyểnVô minh duyên Hành, cho đến duyên Lão tử. Và về phần hoàn diệtVô minh diệt thì Hành diệt, cho đến Lão tử diệt. 

Bực Thánh Duyên giác, nhờ quán sự lưu chuyển của 12 nhơn duyên, mà thấu rõ được nguồn gốc của sanh tử luân hồi; và cũng nhờ quán sự hoàn diệt của 12 nhơn duyên mà được ngộ đạo

Quán sự "Lưu chuyển" của 12 nhơn duyên như thế nào, mà thấy rõ được nguồn gốc của sanh tử luân hồi? Hành giả quán 12 nhơn duyên xoay vần tiếp nối lẫn nhau, như sợi dây chuyền có 12 khoen: khoen này chuyền khoen kia, khoen kia chuyền khoen nọ, như cái vòng tròn không mối. 

Chúng sanh vì đời trước mê lầm (quá khứ căn bản vô minh) nên tạo ra các nghiệp (hành). Hai món này (vô minh và hành) làm nhơn quá khứ

Sau khi chết bị nghiệp lực dẫn dắt tinh thần (thức) đi thọ thân (danh, sắc). Khi thành thân, tất nhiên có 6 căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt v.v..) là chỗ của 6 trần phản ảnh vào (lục nhập). Khi có 6 căn tiếp xúc (xúc) với 6 trần, rồi sinh ra lãnh thọ (thọ) sự khổ và vui. Năm món này (thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ) là quả hiện tại

Khi thọ quả hiện tại, trở lại tạo nhơn nữa là ưa thích (ái), tìm cầu (thủ), làm sao cho có (hữu). Ba món này (ái, thủ, hữu) làm nhơn hiện tại (tức là chi mạt vô minh). 

Do ưa thích tìm cầu cho được, nên tạo nghiệp để thọ sanh thân sau (sanh). Khi đã có thân (tất nhiên phải có thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ) thì phải già và chết (lão, tử). Ba món này (sanh, lão, tử) là quả vị lai. 

Trong khi thọ quả vị lai, rồi trở lại tạo nhơn nữa (ái, thủ, hữu) để thọ quả vị lai lần nữa, cho đến vô cùng tận

(xem biểu đồ) 

Quả hiện tại

(thức, danh sắc, lục nhập, xúc,thọ)

Quả vị lai 

(sanh, lão,tử

Quán về sự "Hoàn diệt" của 12 nhơn duyên:Sau khi hành giả quán sát nguồn gốc của sanh tử luân hồi là do 12 nhơn duyên, nhưng trọng tâmvô minh. Hành giả muốn dứt sanh tử luân hồi, tức nhiên phải diệt trừ vô minh. Nếu vô minh bị diệt trừ thì hành diệt, cho đến lão tử diệt. 

Vô minh có 2 loại: căn bản vô minh, tức là vô minh quá khứ (vô minh, hành), và chi mạt vô minh, tức là vô minh hiện tại (ái, thủ, hữu). Vô minh quá khứ rất khó diệt trừ. Hành giả chỉ có thể diệt trừ vô minh hiện tại là ái, thủ, hữu. Nếu ái, thủ, hữu diệt rồi, thì sanh và lão tử không còn. Không còn sanh và lão tử, thì làm gì có sanh tử luân hồi (xem Phật học Phổ thông khoá thứ tư, giải thích rất rõ). 

Tóm lại, trong Bát Nhã (Tướng không, hay chơn như, chơn tâm v.v...) không có pháp tu xuất thế gian của Thánh Duyên giác là 12 nhơn duyên, cả lưu chuyểnhoàn diệt

GIẢI DANH TỪ 

VÔ MINH: Không sáng suốt, tức là si mê làm lạc. Nói chung là mười món căn bản phiền não và 20 món tuỳ phiền não

HÀNH: Hành động, tạo tác các nghiệp. 

THỨC: thần thức, tức là phần tinh thần trong con người

DANH SẮC: Danh là chỉ cho Tâm, về phần tinh thần chỉ có cái tên; còn Sắc là sắc thân về phần vật chất. Đây là chỉ cho trạng thái khi mới thọ thân, tinh thầnvật chất mới vừa phối hợp, chưa có mắt, tai, mũi, lưỡi v.v... 

LỤC NHẬP: Sáu chỗ vào. Khi thân thể đã đủ 6 căn (nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý) là chỗ của 6 trần cảnh phản ảnh vào. 

XÚC: Khi đã có 6 căn, bắt đầu tiếp xúc với 6 trần. 

THỌ: Sau khi tiếp xúc với 6 trần cảnh rồi lãnh thọ các cảnh. 

ÁI: Sau khi lãnh thọ trần cảnh rồi sanh tâm ưa thích

THỦ: Cầu thủ. Sau khi ưa thích rồi tìm cầu và nắm giữ. 

HỮU: Có. Sau khi cầu thủ rồi gây tạo thế nào cho có. 

SANH: Vì đã tạo nhơn là ưa thích, cầu thủ gây tạo cho có, tức là tạo nghiệp, nên phải thọ quả là sanh đời sau

LÃO TỬ: Sau khi sanh ra đã có thân, tất nhiên phải bị già rồi chết. 

*** 

CHÁNH VĂN 

Không có Tứ đế là:khổ, tập, diệt, đạo; cũng không có "Trí" tu chứngđạo quả để chứng (đắc). Tóm lại, trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có "đặng" cái gì cả. 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn kinh này nói:Trong "Tướng không" (Bát Nhã) không có các pháp xuết thế gian như Tứ đế, Lục độ v.v.... 

Trong đoạn kinh này, chia làm ba phần: 

1. Trong Bát Nhã chơn không, không có Tứ diệu đế là pháp tu của bốn quả Thánh Thinh văn 

2. Trong Bát Nhã chơn không, cũng không có "Trí", là người tu chứng và "Đắc", là đạo quả để chứng. Trong phần này lại có 2 nghĩa: 

a. Nói chung, từ trước đến đây, theo văn kinh thì chỉ phá riêng về "pháp chấp"; nghĩa trong Bát Nhã chơn không, không có pháp ngụ uẩn, pháp Tứ đế, pháp Thập nhị nhân duyên v.v...Đến đây, mới phá chung cả ngã chấppháp chấp; nghĩa là trong Bát Nhã chơn không, không có người tu (ngã) và chứng (pháp); nói chung cả pháp Lục độ và quả Phật. 

b. Nói riêng, câu "không có trí và cũng không có chứng", có thể chỉ riêng cho pháp Lục độ. Vì từ trước đã nói "Trong Bát Nhã chơn không, không có pháp Tứ đế của Thinh văn, pháp Thập nhị nhơn duyên của Duyên giác"; đến đoạn văn này tất nhiên, "Trong Bát Nhã chơn không, cũng không có pháp Lục độ của Bồ Tát". 

3. Tóm lại, trong Bát Nhã chơn không, không có "Đặng" cái gì cả. Đoạn này cũng có 2 nghĩa: 

a. Nói chung, trong Bát Nhã chơn không, không có các pháp thế giannăm uẩn mười hai xứ, mười tám giới và cũng không có các pháp xuất thế gianTứ đế, Thập nhị nhơn duyên, Lục độ, rốt sau là quả Phật. Nói tóm lại, là "không có đặng cái gì cả". 

b. Nói riêng, câu "không có đặng cái gì cả", có thể chỉ riêng cho đạo quả Bồ Đề Niết bàn của Phật. Vì từ trước đã nói: Trong Bát Nhã chơn không, không có pháp tu của Tam thừaTiểu thừa (Thinh văn), Trung thừa (Duyên giác) và Thượng thừa (Bồ Tát); đến đoạn văn này tất nhiên trong Bát Nhã chơn không, cũng không có Tối thượng thừaquả vị Phật. Vì từ trước đã nói: Trong Bát Nhã chơn không, không có pháp tu của Tam thừaTiểu thừa (Thinh văn), Trung thừa (Duyên giác) và Thượng thừa (Bồ Tát); đến đoạn văn này tất nhiên trong Bát Nhã chơn không, cũng không có Tối thượng thừaquả vị Phật. 

Tóm lại, trong "Tướng không" hay trong "Bát Nhã" không có Tứ thánh (Thinh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật) và Lục phàm (Thiên, nhơn, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỉSúc sanh) hay nói một cánh khác là: "không có pháp gì cả". 

GIẢI DANH TỪ 

TỨ ĐẾ, Tức là Tứ Diệu Đế: Bốn sự thật, chắc chắn, muôn đời không thay đổi. 

KHỒ, Tức Khổ đế; chơn lý chắc chắn trình bày rõ ràng cho chúng ta thấy tất cả những nỗi đau khổ trên thế gian này, mà mỗi chúng ta đều phải chịu, như ba khổ: 1. Khổ trên cái khổ (khổ khổ), 2. Khổ vì hư hoại (hoịa khổ), 3. Khổ vì thay đổi biến chuyển (hành khổ). Và tám khổ: 1. Sanh khổ, 2. Bịnh khổ, 3. Già khổ, 4. Chết khổ, 5. Đang thương nhau bị xa lìa là khổ, 6. Đang thù oán giận hờn lại gặp nhau là khổ, 7. Mong cầu không được là khổ (thất vọng), 8. Năm ấm quá thạnh là khổ (xem quyển Tứ Diệu Đế). 

TẬP, tức là Tập đế: chơn lý chắc thật trình bày nguyên nhơn của bể khổ trần gian là lý do vì đâu mà có những nỗi khổ này. Khổ đế như là bản kê hiện trạng của bịnh; còn Tập đế như là bản nói rõ nguyên nhơn của chứng bịnh, lý do vì sao bịnh. 

Tập là nhóm chứa; nghĩa là nhóm chứa các phiền não mê lầm. Phiền não rất nhiều, nói rộng thì đến 84000 món, nói hẹp thì có 10 món căn bản phiền não và 20 món chi mạc phiền não (xem quyển Tứ Diệu Đế, giải rõ). 

DIỆT, tức là Diệt đế hay Niết bàn. Kinh chép: "Các phiền não diệt gọi la Niết bàn. Xa lìa các pháp hữu vi cũng gọi là Niết bàn". Niết bàn có nhiều loại: 

1. Hữu Dư Y Niết bàn: Từ quả thánh thứ nhứt cho đến quả thánh thứ ba của Tiểu thừa tuy đã chứng Niết bàn, nhưng cái dư báo hãy còn. 

2. Vô Dư Y Niết bàn: Đến quả thánh thứ tư, là A La Hán thì các phiền não nghiệp báo không còn, hoàn toàn chứng được quả Niết bàn

3. Vô Trụ Xứ Niết bàn: Đây là quả Niết bàn của Bồ Tát. Bồ Tát đã tự tại giải thoát, nên chỗ nào cũng là cảnh Niết bàn của quí Ngài (xem quyển Tứ Diệu Đế). 

ĐẠO, tức là Đạo đế: phương pháp tu chơn chánh, chắc chắn để đến đạo quả Niết bàn. Phương pháp có 37 phẩm, chia làm 7 loại: 

1. Tứ niệm xứ 2. Tứ chánh cần 

3. Tứ như ý túc 4. Ngũ căn 

5. Ngũ lực 6. Thất Bồ Đề 

7. Bát Chánh Đạo (xem quyển Tứ Diệu Đế). 

CHÁNH VĂN 

Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) mà xa lìa được các cảnh mộng tường điên đảo nên tâm không còn ngăn ngại, lo sợ và chứng rốt ráo Niết bàn

LƯỢC GIẢI 

Đoạn kinh này nói: Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhãxa lìa được các cảnh sợ hãi của mộng tưởng điên đảo và chứng rốt ráo Niết bàn

Vì trong Trí huệ Bát Nhã không có "Đặng" cái gì cả nên Bồ Tát mới y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) mà xa lìa các điên đảo sợ hãi trong cảnh sanh tử đại mộng và chứng đặng rốt ráo quả Niết bàn. Đoạn này đồng nghĩa với bài tụng thứ 29, trong quyển Duy thức Tam thập tụng 

Nguyên văn bài tụng (dịch âm) 

Vô đắc bất tư nghị 

Thị xuất thế gian trí 

Xả nhị thô trọng cố 

Tiện chứng đắc chuyển y

Nghĩa là: cảnh giới "vô đắc" (không đặng) không thể nghĩ bàn. Vì cảnh giới này là trí xuất thế gian, đã bỏ hai món Thô trọng (phiền não chướngSở tri chướng) và chứng đặng hai món Bồ Đề Niết bàn

Mới đọc qua đoạn văn này và doạn văn tiếp sau, chúng ta thấy hình như mâu thuẩn với đoạn văn trên. Vì trong đoạn văn trên nói: "trong Bát Nhã chơn không, không có đặng cái gì cả"; còn đoạn văn này và đoạn văn tiếp sau đây lại nói: "Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã mà chứng đặng rốt ráo Niết bàn. Chư Phật cũng nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã mà đặng đạo Vô thượng Bồ Đề ". 

Nhưng xét kỹ thì không phải mâu thuẩn. Vì "không có đặng cái gì cả", nên mới đặng tất cả. Cũng như cái gương hay màn bạc, nhờ không giữ chặt một hình ảnh gì cả, nên các hình ảnh mới hiện đủ cả. 

Cũng thế, trong Bát Nhã chơn không, vì không có một hình ảnh gì cả, nên tuỳ tịnh duyên hiện ra bốn quả thánh; tuỳ nhiểm duyên hiện ra sáu quả phàm, không thiếu một pháp nào cả. 

Tất cả chúng sanh, vì mê muội tánh Bát Nhã, nên trong chỗ không có cảnh vật mà tự thấy có đủ các cảnh vật, nào thế giới chúng sanhsanh tử luân hồi v.v...Cũng như người ngủ chiêm bao, trong chỗ không có cảnh vật, mà hiện ra đủ các cảnh vật vui, buồn v.v...nên gọi là "mộng tưởng điên đảo". Rồi người chiêm bao kia, tâm bị cảnh vật trong chiêm bao chi phối, làm cho họ phải buồn rầu lo sợ, lắm điều chướng ngại

Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã (Tướng không), thấy ngã, pháp đều không, năm uẩn chẳng có, thế giớichúng sanh không còn, nên tâm không còn bị cảnh vật làm chướng ngiạ hay chi phối nữa, và không còn buồn lo sợ hãi. Cũng như người thức giấc chiêm bao, vì thấy cảnh chiêm bao là không, nên tâm không còn bị cảnh vật trong chiêm bao làm chướng ngại chi phối; không còn bị buồn lo sợ hãi bởi cảnh chiêm bao. Bởi thế nên nói: "Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã, nên xa lìa các mộng tưởng điên đảo, tâm không còn bị chướng ngại và lo sợ v.v..." 

Người đã hoàn toà thức giấc chiêm bao, thì người ấy được an vui với cảnh thức tĩnh, không còn một tí gì sợ hãi lo buồn, bởi cảnh mê mộng nữa. Cũng thế, Bồ Tát khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhã, thì không còn bị cảnh thế gian đại mộng này làm cho tâm họ có một tí gì lo buồn sợ hãi nữa. Các Ngài hoàn toàn tự tại giải thoát và an vui với cảnh Niết bàn tịch mịch, nên nói: "rốt ráo Niết bàn". 

Tóm lại, Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã, nên xa lìa các mộng tưởng điên đảo, không còn bị các khổ sanh tử và được rốt ráo Niết bàn

*** 

GIẢI DANH TỪ 

NIẾT BÀN, hay Niết bàn Na hay Nê hoàn, là do dịch âm chữ Phạn "NIrvana" mà ra. Niết bàn có nhiều nghĩa: 

NIẾT (nir) là ra khỏi; Bàn (vana) là rừng mê. Niết bàn là ra khỏi rừng mê 

Niết là chẳng; bàn là dệt; nghĩa là chẳng dệt ra sanh tử luân hồi nữa. Chữ Bàn cũng có nghĩa là không ngăn ngại. 

Niết bàn còn rất nhiều nghĩa nữa, song tóm lại không ngoài ba nghĩa như sau: 

1. Bất sanh: Nghĩa là không còn sanh ra các thứ mê lầm tội lỗi nữa. 

2. Giải thoát: Nghĩa là thoát ra ngoài sụ ràng buộc, không mắc vào các phiền não triền phược nữa. 

3. Tịch diệt: nghĩa là vắng lặng, dứt sạch. Vắng lặng, an lành, dứt ssạch tất cả nguồn gốc mê lầm. Vì Niết bàn có nhiều nghĩa như vậy, nên trong kinh thường để nguyên âm mà không có dịch nghĩa (xem quyển Tứ Diệu Đế). 

*** 

CHÁNH VĂN 

Các đức Phật quá khứ, hiện tạivị lai cũng đều y theo Trí huệ Bát Nhã này (Tướng không) mà đặng đạo Vô thượng Bồ Đề

LƯỢC GIẢI 

Đoạn kinh này nói: Chư Phật nhờ y theo Trí huệ Bát Nhã mà chứng đặng Bồ Đề

Tất cả chư Phật trong ba đời, quá khứ, hiện tạivị lai, trong khi tu nhơn, các Ngài đều dùng Trí huệ Bát Nhã, chiếu phá sạch hết các mây mù vô minh phiền não từ vô thỉ đến nay; nào ngã chấp pháp chấp đều không còn. Lúc bấy giờ chơn tâm, Phật tánh hay thật tướng Bát Nhã hiện ra, các Ngài chứng đặng đạo Vô thượng Bồ Đề, cũng gọi là thành Phật

Tóm lại, tất cả những người tu hành, từ phàm phu (Thập tín) trải qua Tám Hiền (Thập trụ, Thập hạnhThập hồi hướng) đến Thập Thánh (Thập địa) rốt sau là quả Phật, không địa vị nàovà cũng không giờ phút nào, chẳng dùng Trí huệ Bát Nhã; nghĩa là nhờ Trí huệ Bát Nhã mà đặng thành tựu viên mãn. Bởi thế nên kinh chép: "Trí huệ là mẹ sanh ra tất cả chư Phật ". 

GIẢI DANH TỪ 

BỔ ĐỀ: Bồ Đề là dịch âm chữ Phạn "Bodhi" . Cựu dịch là "Đạo", nghĩa là thông suốt. Tân dịch là "Giác", có nghỉa là giác ngộ, mà giác ngộ tức là Phật (Phật dịch nghĩa là Giác) 

VÔ THƯỢNG BỔ ĐỀ: Tức là quả Phật Bồ Đề, không có quả Phật Bồ Đề nào trên nữa. 

Bồ Đề có nhiều từng bực: 

1. Sơ phát tâm Bồ Đề (người mới phát tâm Phật) 

2. Thinh văn Bồ Đề 

3. Duyên giác Bồ Đề 

4. Bồ Tát Bồ Đề 

5 Phật Bồ Đề (cũng gọi là Vô thượn Bồ Đề

CHÁNH VĂN 

Trí huệ Bát Nhã (Tướng không) hãy diệt trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy không hư dối, nên gọi là Thần chú Bát Nhã Ba La Mật Đa, cũng gọi là chú Đại Thần, chú Đại minh, chú Vô thượng và chú Vô đẳng đẳng

LƯỢC GIẢI 

Đoạn kinh này nói: Trí huệ Bát Nhã, có công năng diệt trừ các khổ, nên cũng gọi là Thần chú Bát Nhã v.v... 

Kinh này là kinh nhưng cũng là chú; vì người chí thành trì tụng, sẽ được linh nghiệm phi thường, tuỳ tâm mãn nguyện, cầu chi được nấy, mau lẹ phi thường, không khác gì thần chú, nên cũng gọi là "THần chú Bát Nhã Ba La Mật Đa". 

Kinh này thần diệu không thể xét lường được. Người thọ trì đọc tụng kinh này sẽ được thành tựu công đức không thể nghĩ bàn và được đại giải thoát, nên gọi là "chú Đại thần". 

Kinh này có khả năng phá trừ gốc rễ của vô minh phiền não từ vô thỉ đến nay, và làm hiển lộ Phật tánh sáng suốt, nên gọi là "chú Đại minh". 

Người trì kinh này sẽ đặng đạo Vô thượng Bồ Đề, nên cũng gọi là "chú Vô thượng". 

Người chí tâm trì tụng kinh này sẽ đặng Phật tánh bình đẳng như như bất động, và sẽ chứng được quả Phật là quả cao tột, không quả vị nào sánh bằng, nên gọi là "chú Vô đẳng đẳng". 

Tóm lai, kinh này có công năng thần diệu phi thường, cũng như thần chú, có thể diệt trừ hết gốc rễ vô minh phiền não, làm cho hành giả hết khổ được đại giải thoátminh tâm kiến tánh thành Phật, nên gọi là "chú Bát Nhã" v.v... 

GIẢI DANH TỪ 

CHÚ: Tiếng Phạn gọi là "Đà La Ni"; Trung Hoa dịch là "chú"; tức là những bài kinh không có nghĩa, cũng gọi là "mật giáo". Hành giả chí thành đọc tụng, sẽ được linh nghiệm như thần nên cũng gọi là "Thần chú" 

*** 

CHÁNH VĂN 

Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, liền nói thần chú Bát Nhã: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha". 

LƯỢC GIẢI 

Đoạn kinh này nói về Thần chú Bát Nhã

Tất cả kinh điển của Phật có thể chia làm hai loại: Hiển giáoMật giáo. Nhưng kinh sách nào giảng dạy nghĩa lýphương pháp tu hành rõ ràng, hành giả y theo đó thật hành, sẽ được thành công đắc quả, thì gọi là Hiển giáo. Trái lại, như các Thần chú, hành giả không cần biết nghĩa lý, chỉ chí tâm trì tụng, sẽ được linh nghiệm phi thường, cầu chi được nấy, tuỳ tâm mãn nguyện, thì gọi là "Mật giáo". 

Bát Nhã Tâm Kinh, đủ cả Hiển giáoMật giáo. Từ câu: "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm v.v...cho đến câu: "tức thuyết chú viết", là thuộc về Hiển giáo. Từ câu: "Yết đế yết đế " cho đến câu "Bồ Đề tát bà ha", là thuộc về Mật giáo

Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, trước nói kinh Bát Nhã, giảng giải nghĩa lý rõ ràng để cho người tu hành y theo đó thật hành sẽ đuợc trí tuệ Bát Nhã

Tiếp theo kinh, Ngài nói thần chú Bát Nhã, để cho người tu hành, chí thành trì tụng (không cần biết nghĩa) tâm họ sẽ được định. Nhờ có định mới phát sanh ra Trí huệ và sẽ nhập được Thật Tướng Bát Nhã. Nghĩa là từ văn tự Bát Nhã tiến lên Quán chiếu Bát Nhã, rồi đến Thật Tường Bát Nhã

Về Thần chú, từ xưa đến nay hầu hết chư Tổ, đều không dịch nghĩa. Bởi các lý do như sau: 

1. Thần chúmật ngữ (lời nói mật) của chư Phật, không phải chúng phàm phu có thể biết được. 

2. Thần chú là tên của các vị Thần, đọc đến thì chư Thần sẽ đến bảo hộ cho hành giả được toại nguyện 

3. Thần chú cũng như các mật hiệu của nhà binh, hành giả chí tâm trì tụng, sẽ được hiệu nghiệm phi thường

4. Chữ "Chú" nghĩa là nguyện. Hành giả chí thành trì tụng, sẽ được tuỳ tâm mãnm nguyện. 

Tóm lại, Thần chú Bát Nhã thuộc về Mật giáo, có nhiều lý do không thể phiên dịch được. Người chí tâm trì tụng sẽ được lợi ích vô cùng vô tận

Dịch tại PHƯỚC HẬU Cổ tự TRÀ ÔN 
Dịch xong ngày 6 9 năm Ất Tî PLl 2509 
Nhằm ngày 30 10 1965

Trích:
Phật Học Phổ Thông
Khóa Thứ Mười Hai

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10396)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12357)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11659)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28816)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12058)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13018)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11452)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12385)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17454)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53085)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35497)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12424)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13323)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14391)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16098)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13734)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16855)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13140)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12542)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11628)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19590)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12191)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12330)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15041)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15047)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11407)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17203)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14986)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20223)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15073)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13005)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22896)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11670)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11509)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15860)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12894)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18927)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18433)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant