TỨ PHẦN
LUẬT 四分律
Hán dịch: Tam
tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm.
Việt dịch:
Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng
Hiệu chính và
chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
TÁN DUYÊN KHỞI[1]
Cúi đầu lễ chư
Phật,
Tôn Pháp, Tăng
tỳ-kheo.
Nay diễn pháp
Tì-ni
Để Chánh pháp
trường tồn.
Ưu-ba-li đứng đầu,[2]
Và các Thân
chứng[3] khác,
Nay nói yếu nghĩa
giới
Các hiền đều cùng
nghe.
Nay muốn nói thâm
giới
Cho người ưa trì giới,
Cho người hay
phúng tụng;
Lợi ích các trưởng
lão.
Nay nói mười cú
nghĩa
Giới pháp của chư
Phật:[4]
Khiến Tăng hỷ, an
lạc,[5]
Và để nhiếp thủ
Tăng,[6]
Người không tín sẽ
tín,
Người đã tín tăng
trưởng,
Dứt trừ kẻ phá
giới,
Đưa tà đạo vào
chánh,[7]
Người tàm quý an
ổn,
Phật pháp được lâu
dài.[8]
Vì vậy, Đấng Tối
Thắng
Diễn nói Kinh Cấm
giới.[9]
Các núi, Tu-di
hơn;
Các sông, biển là
nhất;
Các Kinh trăm ngàn
ức,
Giới kinh là bậc
nhất.
Muốn cầu điều tối
thượng
Đời này và đời sau,
Phải trì giới cấm
này
Trọn đời đừng hủy
phạm.
Trừ kết, không
chướng ngại,
Trói buộc do đây
mở.
Dùng giới tự quán
sát,
Như gương soi diện
mạo.
Muốn tạo các pháp
lành,
Đầy đủ ba món
nghiệp.
Nên xét kỹ ý mình
Như kinh La-vân
nói.[10]
Sở dĩ lập ngôi
Vua,
Bởi do đời tranh
tụng.
Nhân dân suy cử
lên,
Pháp thường đời
thượng cổ.[11]
Người phạm tội
biết pháp,
Thuận theo pháp
thành tựu.
Giới luật cũng như
vậy;
Như Vua chánh pháp
trị;
Như thầy thuốc xét
bệnh,
Chữa trị tuỳ theo
chứng.
Trị được thì cho
thuốc;
Không thể trị thì
buông.
Như sách thuốc đã
nói:
Bốn chứng không
thể trị,
Mười ba có thể
cứu.
Ngoài ra chẳng cần
cứu.
Ví như có thây
chết,
Biển cả không dung
chứa,
Bị gió mạnh trôi
dạt
Đưa nó lên trên
bờ.
Các người làm ác
hạnh
Cũng như thây chết
kia
Đại chúng không
dung chứa;
Do vậy nên trì
giới.
Như giữ cửa kiên
cố,
Khỏi lo mất của
cải.
Nếu tường bị
khoét, đổ;
Có của sẽ phải lo.
Giới Phật không
khuyết, thủng;
Người phụng trì
không lo.
Cấm giới không
kiên cố
Người hủy phạm lo
âu.
Chiếc bát sành
lủng chảy,
Thợ gốm lòng sầu
lo.
Nếu dụng cụ hoàn
bị,
Quyến thuộc đều
hoan hỉ.
Trì giới có
khuyết, thủng;
Người làm ác
thường lo.
Kẻ không hủy cấm
giới
Tâm thường được
hoan hỉ.
Như đốm lửa tuy
bé;
Đừng khinh nó là
nhỏ.
Nếu gặp cỏ, cây
khô
Nó đốt cháy không
sót.
Ác ta làm tuy nhỏ,
Cẩn thận chó xem
thường.
Như rách y-la
diệp[12],
Thường sinh làm
thân rồng.
Như sư tử rống
gầm,
Người say không
biết sợ.
Thú nhỏ tiếng tuy
bé,
Người tỉnh nghe
vẫn sợ.
Người ba cấu[13]
cũng vậy,
Tất cả ác không
sợ.
Người trí việc ác
nhỏ,
Thường ôm lòng lo
sợ.
Như khi bào chế
thuốc,
Loại bỏ thứ không
tốt;
Người bệnh uống
được lành,
Thân khỏe được an
lạc.
Người tu giới cũng
vậy;
Hay tránh các ác
hành,
Trừ các hoạn kết
sử,
An ổn vào
Niết-bàn.
Nếu muốn đi đường
xa,
Phải tự bảo vệ
chân.
Nếu chân bị thương
tổn
Không thể đi xa
được.
Cầu cõi trời,
Niết-bàn;
Phương tiện thủ hộ
giới.
Không hủy hoại như
vậy,
Ắt vượt khỏi đường
hiểm.
Như người muốn qua
sông,
Dùng tay và phao
nổi;
Nước sâu không sợ
chìm,
Có thể đến bờ kia.
Đệ tử Phật cũng
vậy,
Tu hành gốc cấm
giới,
Không bị cuốn dòng
tà,
Đắm chìm biển sanh
tử.
Ví như cung Đế
Thích[14]
Các báu khắc chạm
thành,
Thềm bậc bằng thất
bảo,
Chỗ đi[15] của
người, trời.
Điện chánh pháp[16]
cũng vậy;
Bảy giác ý[17]
trang nghiêm,
Cấm giới làm thềm
bậc;
Chỗ đi của thánh
hiền.
Như khéo học hết
thảy
Các kỹ nghệ thế
gian,
Sẽ được Vua sủng
ái;
Do vậy được sung
sướng.
Người khéo hay tu
học
Cấm giới do Phật
nói,
Trọn không đọa ác
thú,
Thường được nơi an
ổn.
Như binh mình đủ
mạnh
Mới phá được binh
người.
Chúng hiền thánh
kiên cố
Sau đó phá quân
ma.
Chúng Thánh nếu
hòa hợp,
Được Thế tôn khen
ngợi.
Do chúng hòa hợp
vậy
Phật pháp được lậu
dài.
Như sữa mẹ từ ái
Nuôi dưỡng, giữ
gìn con;
Tất cả nạn nước,
lửa,
Bảo vệ không xâm
hại.
Cấm giới như từ
mẫu
Giữ gìn người hành
giả
Trọn không đọa súc
sanh,
Ngạ quỷ hay địa
ngục.
Như có tướng dũng
mãnh
Khéo tập pháp
chiến đấu,
Hàng phục kẻ địch
kia,
Tử chiến không
tiếc thân.
Con Phật cũng như
vậy,
Khéo học các cấm
giới;
Khi năm ấm tan
hoại,
Trọn không sợ mạng
hết.
Sinh ra từ giới
Phật,
Mới là con chân
thật.
Cũng như Ương-quật-ma,[18]
Được Như lai ký
biệt.
Nếu có người xả
giới,
Đối Phật pháp là
chết.
Trì giới như hộ
mạng,
Giữ gìn không để
mất.
Ví như được ấn
Vua,
Đến đâu không trở
ngại.
Khuyết thì bị cật
vấn;
Mất hết thì bị
trói.
Người toàn đủ
giới-ấn
Đến đâu không trở
ngại.
Hủy ít thì bất
định;
Hủy nhiều vào ba
ác.
Vì tất cả mọi
người
Hàng phục các ma
quỷ,
Nên Tiên nhân ngũ
thông[19]
Sáng tác các chú
thuật.
Vì người tàm quý
kia
Nhiếp người không
tàm quý,
Nên Như lai chế
giới,
Nửa tháng thuyết
một lần.
Đã thuyết ích lợi
giới,
Cúi đầu lễ chư
Phật.
(Đoạn kệ tụng này không phải được sáng tác khi Ca-diệp cùng Thánh chúng nghìn vị kết tập Luật. Đây căn cứ theo sở truyền riêng của mỗi bộ trong năm bộ phân trương về sau. Tức được thuyết bởi vị đứng đầu của mỗi chúng. Nay vì muốn phân biệt giải thích Luật tướng, cho nên trước tiên đọc kệ tán thán, sau đó giải thuyết.)[20]
[1] (T22n1428, tr.567b26)
[2] Tứ phần 54, tr.968a4 «Tập pháp tì-ni ngũ bách nhân»: trong đại hội kết tập tại Vương-xá, Ưu-ba-li được chấp thuận làm thuyết trình viên về Luật tạng.
[3] Thân chứng (Skt. kāya-sākṣin, Pali: kāya-sakkhin), Câu-xá 24, tr.126a17: vị Bất-hoàn (A-na-hàm) khi chứng đắc diệt định, chuyển danh là thân chứng 得滅定不還轉名為身證.
[4] Thập cú nghĩa 十句義, xem cht. 31, ch.i sau
[5] Hán: hỉ vĩnh an 喜永安; cú nghĩa 2&3: khiến Tăng hoan hỷ và an lạc.
[6] Cú nghĩa 1.
[7] Cú nghĩa 6: điều phục những ai chưa được điều phục.
[8] Trong đây không đề cập hai cú nghĩa 8 & 9: đoạn trừ hữu lậu hiện tại, đoạn trừ hữu lậu vị lai.
[9] Cấm giới kinh 禁戒經, hay Giới kinh, chỉ Ba-la-đề-mộc-xoa 波羅提木叉 (Skt. Prātimokṣa-sutra, Pali: Pāṭimokkha-sutta)
[10] Trung A-hàm 3, «14. kinh La-vân,» (T1, tr.436a-437b). Pali, M. 61. Ambalaṭṭhikā-Rāhulovāda-sutta (M.i.414-424): Phật hỏi Rāhula, cái gương để làm gì?
[11] Trường A-hàm 6, «kinh Tiểu duyên,» (T1, tr.36tt). Pali: D. 24. Agañña-suttanta (D.iii.tr. 93): Vào thời thái cổ, do tranh chấp ruộng đất, nhân dân bầu lên một người để giải quyết, gọi là vị trọng tài được bầu lên bởi đại hội (Mahāsammato-rājā; Hán dịch: Đại bình đẳng vương 大平王).
[12] Y-la diệp 伊羅葉; Skt. erapatra, hoặc elāpattra, H: hương diệp 香葉, hoắc hương diệp 藿香葉, một loại tiểu đậu khấu (Cardamon). Ở đây chỉ tên một con voi chúa, hay rồng, Pali: erakapatta. Tiền thân là Tỳ-kheo thời Phật Ca-diệp (Pali: Kassapa), bị té thuyền, vớ nhằm lá eraka. Ông chết đuối với tâm ưu uất nên tái sinh làm thân rồng. (Pháp cú truyện giải, Dh.A.iii.230-6). Theo tài liệu Hán, Phúc cái chánh hạnh sở tập kinh 11 (T32n1671): tiền thân là tỳ-kheo phạm 2 tội, ngắt lá y-la và khất thực sau giờ ngọ, do đó sinh làm thân rồng với 7 đầu trên đó mọc cây y-la.
[13] Tam cấu nhân 三垢人, ba hạng người dơ bẩn: như cái chậu rửa chân còn lưu một ít nước dơ; cái chậu đã đổ hết nước dơ, và cái chậu dơ bị lật úp. Xem, Trung A-hàm 3, «La-vân kinh,» (T1, tr.436a). Pali, M. i. 141-424. Tam cấu, cũng thường chỉ tham, sân, si.
[14] Đế Thích đường 帝釋堂. Đây chỉ Chánh pháp điện 正法殿, cũng gọi là Thiện pháp đường hay Thiện pháp giảng đường 善法講堂, Hội trường của chư thiên Tam-thập tam (Đao-lị thiên). Pali: Sudhammāsabhā. Đế Thích còn có cung điện riêng khác nữa, gọi là Tối thắng giảng đường (Pali: Vejayanta-pāsāda)
[15] Sở hành 所行, cũng thường nói là sở hành cảnh giới 所行境界, hay hành xứ 行處; Skt. (= pali) gocara, môi trường hay phạm vi nhận thức và hành động.
[16] Chánh pháp đường 正法堂, xem cht. 14 trên.
[17] Giác ý 覺意, hay giác chi 覺支, bồ-đề phần 菩提分; Pali: bojjhaṅga (Skt.bodhyaṅga).
[18] Ương-quật-ma-(la) 鴦崛魔(=摩)羅, Pali: Aṅgulimāla (Skt. Aṅgulimālya) dịch: Chỉ Man 指鬘, tên tướng cướp lừng danh thời Phật. Sau được Phật hóa độ thành tỳ-kheo và đắc quả A-la-hán. Xem Tạp A-hàm 36.16 (T2, tr.280c); Hiền ngu kinh 11 (T4, tr. 423b); Ương-quật-ma kinh (T2, tr.508b); Ương-quật-ma-la kinh (T2, tr.512b); Avadāśataka (Skt.) No.27; DhpA (Pali).i. tr.146; iii.185; Therag.vv.864-891.
[19] Hán: thần tiên ngũ thông nhân 神仙五通人.
[20] Đoạn phụ chú của vị truyền luật. Không thuộc chính văn của Luật.