Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ghi Chú

18 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 9539)
Ghi Chú

TỲ KHEO GIỚITỲ KHEO NI GIỚI
Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải

TỲ KHEO NI GIỚI

V. Ghi Chú

(1) Giới kinh ở đây là Tỷ-kheo giới bản và Tỷ-kheo ni giới bản. Giới kinh ở đây còn có 2 trường hợp nữa. Có trường hợp chỉ cho Tứ phần luật. Có trường hợp chỉ cho mỗi bài tụng của 7 đức Phật nói Giới kinh.

(2) Chính văn là thánh pháp tài (tài sản chánh pháp của các vị thánh), thường nói tắt là thánh tài. Thánh tài có 7 thứ, là tín, giới, tàm, quí, văn, xả, tuệ. Có 7 thứ này thì gọi là thánh nhân (kinh Niết bàn).

(3) Tỷ-kheo ni giới có 7 loại: 1. khiắ, có 8; 2. tăng tàn, có 17; 3. xả đọa, có 30; 4. đọa, có 178; 5. hối quá, có 8; 6. học, có 100; 7. diệt tránh, có 7. Chính văn này chỉ đưa ra 3 loại, là nói tắt.

(4) Dịch đúng chính văn là nói việc ấy cho tôi. Chính văn này không chỉnh. Ở đây là các đức Phật đều nói Giới kinh.

(5) Giới luật của dị giáo, ngoại đạo.

(6) Đại khái gửi lời thưa rằng mình cũng muốn bố-tát và trong nửa tháng vừa qua mình không vi phạm giới nào.

(7) Chính văn là thời đáo, có nghĩa đến lúc, đúng lúc, thì gian thích hợp.

(8) Chỉ cho 37 giác phần, đặc biệt chỉ cho 8 chánh đạo trong đó.

(9) Chính văn là trì, có nghĩa nắm giữ trong trí, tức là nhớ, ghi nhận.

(10) Dịch nghĩa là khí (bị bỏ ra ngoài tăng chúng), nhưng chính nghĩa là tha thắng (bị chiến thắng).

(11) Sự dâm dục, Luật gọi là phi phạn hạnh, là bất tịnh hạnh.

(12) Không được cùng tăng chúng kiết-ma và thuyết giới.

(13) Là hẹn chỗ để hành dâm. Chính do sự này mà phạm trọng tội.

(14) 1. Chính văn là phạm tùy cử cố. Dịch như đã dịch mà không tự tín chính xác. 2. Từ giới thứ 5 xuống đến giới này có sự bất thường. Là cuối mỗi giới có thêm 1 câu. Những câu này quả là không cần thiết, nên bản Nguyên chiếu lược bỏ.

(15) Dịch nghĩa là tăng tàn, là phạm những tội này còn có thể cứu vãn được nếu biết sám hối trước 40 vị Tỷ-kheo và Tỷ-kheo ni, không thì cũng như phạm tội ba-la-di.

(16) Loại tăng tàn của Tỷ-kheo ni có sự bất thường. Là trong 17 giới, 9 giới trước ghi thêm sơ pháp ưng xả, 8 giới sau ghi thêm tam pháp ưng xả. Trùng trị cắt nghĩa sơ pháp là mới làm là phạm (nói cách khác, mới phạm là thành tội), ưng xả là phải bỏ mà đừng phạm; tam phápcan gián đến lần thứ 3 mà không bỏ mới là phạm (nói cách khác, sau 3 lần can gián mới thành tội), ưng xả cũng là phải bỏ mà đừng phạm. Sơ pháp với tam pháp, cắt nghĩa như vậy là chính xác, còn ưng xả thì không rõ cắt nghĩa như vậy có chính xác không. Vì 2 câu này chỉ có Trùng trị cắt nghĩa, nên tôi dịch theo sách ấy.

(17) Chính văn là chủng tánh (dòng họ, giai cấp, thành phần xã hội).

(18) Nhiễm thực là thức ăn xuất từ nhiễm tâm (tâm ô nhiễm: tâm dâm dục).

(19) Đủ thì phải nói phá hoại tăng hòa hợp mà còn chống lại sự can gián. Tăng hòa hợp là 4 vị Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo ni sắp lên, cùng kiết-ma và cùng tụng giới.

(20) Là cùng học đức Phật bổn sư: đức Thích-ca.

(21) Đủ thì phải nói hỗ trợ phá tăng hòa hợp mà còn chống lại sự can gián.

(22) Đủ thì phải nói làm hoen ố tín đồ mà còn chống lại sự can gián.

(23) Làm hoen ố tín đồ, chính văn là ô tha gia (làm bẩn người khác). Ô tha gia có 4 hình thứcđứng đầu là đem vật của người này cho mà cho lại người khác, làm cho tâm lý người nào cũng không còn bình thường. Làm những việc xấu là những việc xấu dẫn ra từ sự ô tha gia.

(24) Hoan hỷ, chính văn là "ma-na-đỏa", dịch nghĩa là ý hỷ. Ý hỷ là ở sát cạnh chư ni, chân thành ân hận, làm cho chư ni hoan hỷ mà mình cũng hoan hỷ.

(25) Chính văn chỉ có Tỷ-kheo ni. Như vậy là không chỉnh, nên phải bổ túc Tỷ-kheo.

(26) Trường hợp, chính văn là thời. Tra 4 bộ Luật khác mới biết chữ ấy, ở đây và nhiều chỗ sau đây, có nghĩa là trường hợp.

(27) Dịch nghĩa là xả đọa, là xả thí những vật dụng dư thừa rồi sám hối, nếu không thì sẽ bị đọa lạc ác đạo.

(28) Y công đức (ca-thy-na y) là y được xét thưởng sau 3 tháng an cư thanh tịnh. Ai được xét thưởng thì có 5 tháng (16/7 đến 15/12) được hưởng 5 sự mà Luật đã định.

(29) Trường y (y dài) là dài bằng 8 ngón tay và rộng bằng 4 ngón tay của Phật. Vạn 70/346 nói trường y là y dư thừa, hễ vải dài 1 thước 6, rộng 8 tấc, thì đã gọi là trường y.

(30) Tịnh thí nghĩa là cho một cách trong sạch. Tịnh thí ở đây là Tỷ-kheo ni có thừa những vật dụng (như y, bát, v/v) thì phải thí xả. Có 2 cách tịnh thí. Một là chân thật tịnh thí, là đem vật dụng thừa ra giữa chư tăng mà thí xả cho người khác. Hai là triển chuyển tịnh thí, là thí xả giữa chư tăng mà nói tên người mình muốn cho. Nếu người ấy vắng mặt thì chư tăng nói : Đại tỷ đã cho người ấy rồi thì đó là vật của người ấy ; đại tỷ nên cất giữ giúp người ấy, và nếu cần thì mượn mà dùng.

(31) 5 y là An-đà-hội, Uất-đa-la-tăng, Tăng-già-lê, tăng-kỳ-chi, phú-kiên ; 5 y là của Tỷ-kheo ni dùng. Cũng nên biết chữ Y trong Luật có khi chỉ cho y, có khi chỉ cho áo, quần, khăn v/v, có khi chỉ cho vải.

(32) Kiết-ma, dịch nghĩa là tác pháp biện sự. Việc gì của tăng cũng phải do cả tăng quyết định mới thành tựu, đó gọi là kiết-ma. Kiết-ma có đan bạch, bạch nhị và bạch tứ. Đan bạch là gặp những việc quá thường xuyên thì chỉ cần 1 lần tuyên cáo (tác bạch, bạch) mà thôi, không cần hỏi lại. Bạch nhị là gặp những việc hơi quan trọng, sợ xảy bất đồng ý về sau, nên phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 1 lần. Bạch tứ là gặp những việc quan trọng thì phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 3 lần. Tăng kiết-ma có 4 loại, đó là 4 vị cho đan bạch, 5 vị cho bạch nhị, 10 vị cho bạch tứ, 20 vị hay 40 vị cho sự xử tội tăng tàn. Số lượng này nhiều hơn thì được, thiếu đi thì không được.

(33) Đáng lẽ phải nói 5 y có cái cũ và hỏng. Nguyên do của giới này là vì có Tỷ-kheo ni y Tăng già lê bị cũ và hỏng.

(34) Lời xin tùy ýthí chủ có lời xin nói trước rằng người nhận lãnh muốn sao cũng được.

(35) Chính văn là khẩu khả thọ, dịch nhận lấy bằng cách miệng nói được, là theo Danh nghĩa (Vạn 70/347).

(36) Đáng lẽ giới này nên nói đổi chác (mậu) thì đúng hơn, vì bán mua thì là giới thứ 11.

(37) Chính văn là muội.

(38) Dịch sát là 10 ngày chưa hết của 3 tháng kiết hạ an cư ; 10 ngày ấy là 6/7 đến 15/7.

(39) Thì hạn của y ấy, y ấy là y cúng vội vàng nói trên, thì hạn của y ấy là 1 tháng (16/7 đến 15/8) nếu không thọ công đức y, hoặc 5 tháng (16/7 đến 15/12) nếu có thọ công đức y.

(40) Giới này đến giới 23 rõ ràng có thể làm 1 giới thôi. Phải dịch rất sát tên giới, là để thấy khác nhau.

(41) Trường bát, có ý kiến nói là bát dư thừa.

(42) Bịnh y ở đây là vải dùng lúc hành kinh.

(43) Thời yphi thời y. Y đây cũng có thể là vải. Coi giới thứ 3 thì biết. Thời y (y đúng thời) là y có trong thì gian 1 tháng (16/7-15/8) hoặc 5 tháng (16/7-15/12). Phi thời y (y trái thời) là y có trong thì gian không phải thì gian của thời y.

(44) Tấm ở đây nhỏ thì rộng 2 khuỷu tay, lớn thì bằng y ca sa (Vạn 70/348). Áo dày là áo chống lạnh.

(45) Áo mỏng cũng nên dịch áo nhẹ, là áo chống nóng.

(46) Ba-dật-đề dịch nghĩa là đọa, là phạm những giới này nếu không sám hối giữa chư tăng thì sẽ bị đọa lạc.

(47) Coi lại ghi chú 17.

(48) 5, 6 lời, cũng có thể dịch là pháp số 5 (như nói 5 uẩn vô ngã) và pháp số 6 (như nói 6 thức vô thường).

(49) Cây cối là chỗ ở của quỉ thần và sinh vật, nên những chữ chặt phá cây cối và sinh vật là bổ túc.

(50) Giường giây là lòng giường đan sợi mây hay bất cứ sợi gì. Có chỗ giường giây là võng.

(51) Không phải giờ ăn (phi thời) là kể từ xế bóng ngày trước cho đến ngày sau trời chưa sáng.

(52) Dịch rõ là thức ăn mà mình không hay chưa nhận lời mời, hoặc thuốc cũng không hay chưa nhận lời mời, mà đã bỏ vào miệng.

(53) Bữa ăn trước là trời sáng cho đến giờ ngọ, bữa ăn sau là giờ ngọ.

(54) Nhà ăn (thực gia) và vật báu ở đây có cái nghĩa riêng ở đây, không phải cái nghĩa thông thường. Nghĩa thông thường thì nhà ăn là nhà mời ăn, vật báu là vàng ngọc (hoặc nói bóng người đẹp). Nhưng nghĩa ở đây thì nhà là nhà có chồng vợ, ăn là chồng vợ ấy hành dâm hưởng lạc với nhau (và vật báu có thể chỉ có nghĩa là trong nhà ấy có chỗ cho chồng vợ hành dâm). Trong nhà ăn có vật báu như vậy mà họ mời ăn rồi không đi ngay thì rất chướng ngại cho họ, nhất là cho người chồng.

(55) Dịch rõ là khơi lại 4 sự tranh cãi. Sự tranh cãi có 4, đó là 1, ngôn tranh, là tranh cãi vì bàn luận giới pháp; 2, mích tranh, là tranh cãi vì xoi bói tội lỗi ; 3, phạm tranh, là tranh cãi về tội lỗi đã phạm; 4, sự tranh, là tranh cãi về công việc kiết-ma. Cả 4 sự tranh cãi đều phải diệt bằng 7 cách diệt tránh. Khi kiết-ma diệt tránh rồi mà ai còn khêu gợi lại thì phạm ba-dật-đề.

(56) Đâu la là bông của mọi thứ cây cỏ, trong đó có bông gòn, bông vải, và kén tằm hoang.

(57) Đúng chính văn thì chỉ nói tỏi. Nhưng thật ra là nói 5 vị tân. Nên phải dịch các thứ tỏi.

(58) Tác tịnh ở đây là làm vệ sinh bộ phận sinh dục. Đặt giới hạn như vậy là phòng tự kích thích, phòng thói thủ dâm.

(59) Xin lúa, mè, gạo, đậu, v/v. Ấy là nói sự xin xỏ không chán, không biết xấu hổ.

(60) Và các trò chơi khác. Kỷ nhạc là diễn tấu nhạc khí, là hòa nhạc; có chỗ kỷ nhạc là diễn kịch hòa nhạc.

(60b) Chính văn là bất sinh Phật pháp trung. Không sinh trong Phật phápkhông sinh vào trong gia đình tin Phật, không sống trong Phật pháp bằng cách xuất gia hay tại gia.

(61) Như trời lạnh mà chỉ có 1 chăn.

(62) Như vì việc của Tam bảo, vì việc của Tỷ-kheo ni bịnh, thì kiết hạ an cư cũng được tác pháp xuất giới 7 ngày.

(63) Vì tín đồ vốn chỉ xin cúng dường mùa an cư mà thôi.

(64) 6 nạn là không có kéo, kim, chỉ, vải không đủ, chủ y phá giới, tính mạng bị nạn.

(65) 5 ngày coi sóc 1 lần.

(66) Vì đui, điếc, còng, què, v/v.

(67) Là 10 năm sau khi xuất gia và 2 năm Thức-xoa. Không phải 12 năm là năm sinh. (Trùng trị, Vạn 63/300A).

(68) Dâm nữ, tư thông, v/v.

(69) Là giáo pháp và cơm áo.

(70) Chính văn nói 12 năm, nhưng chính trong Tứ phần luật thì nói 1 năm, hay nói 12 tháng. Như vậy có thể suy ra mỗi năm độ 1 người là nhiều rồi.

(71) Dịch đủ thì còn cá và thịt. Nhưng đó là tùy thí tùy thực (cho gì ăn nấy), nên ở đây phải lược.

(72) Chính văn là gia. Theo cước chú của Vạn 64/102 thì là nhà của thí chủ. Nhưng cước chú của Tỷ-kheo ni giới kinh thì gia ở đây đọc là cô (thái cô), nghĩa là bà thầy. Xét lý do của giới này (Tứ phần, Chính 22/768) thì nghĩa thầy đúng hơn. Lý do của giới này là Tỷ-kheo ni An ổn có 1 đệ tử là Tỷ-kheo ni Đề-xá. Hai thầy trò đến nhà thí chủ cũ. Thí chủ thấy An ổn y phục tề chỉnh, oai nghi hoàn hảo, nên hoan hỷ cúng dường. Về chùa, An ổn nói với Đề-xá, rằng thí chủ này tín tâm chân thành, cúng dường hảo ý. Đề-xá có ý ganh ghét, nói thí chủ tín tâm chân thành, cúng dường hảo ý, là cúng dường cho thầy!

(73) Vạn 64/102 nói mè đây là chi ma.

(74) Chính văn là chủ khỏa y, tức quần cụt, quần đùi, quần lót, mà may lụa, độn dày, đính đồ đẹp. Mặc để làm đẹp hạ thể. Bị cấm dùng. Nếu có bịnh thì mặc bịnh y rồi mặc quần.

(75) Nói đủ là tăng kỳ chi, là áo lót che nách, ngực và eo.

(76) Thuật số ở đây, và ở dưới đây, chính văn là kỹ thuật. Chữ này không chỉnh, vì ở đây là nói chú thuật, lý số, và đó là tà mạng nên Luật cấm.

(77) Tra cứu Tứ phần (Chính 22/777) và Trùng trị (Vạn 63/303), thì lắc mình rảo bước (dao thân xu hành) có thể hiểu đi mà nhún nhảy. Coi phần khai của giới này thì đủ để hình dung. Phần ấy nói hoặc vốn có bịnh như vậy, v/v, hoặc muốn làm cho y áo tề chỉnh, nên nhìn phải nhìn trái, ngoái mình mà nhìn, không phạm.

(78) Chính văn là tác, vừa có nghĩa sử dụng, vừa có nghĩa sắm sửa. Ở đây có cả 2 nghĩa, mà nghĩa sử dụng nhiều hơn, còn nghĩa sắm sửa thì là giới 157.

(79) Dịch nghĩa là hướng bỉ hối, là những giới điều mà phạm vào chỉ cần sám hối với 1 Tỷ-kheo ni.

(80) Danh nghĩa (Vạn 70/273) nói từ bò mà ra là nhủ, từ nhủ mà ra là lạc, từ lạc mà ra là sanh tô, từ sanh tô mà ra là thục tô, từ thục tô mà ra là đề hồ. Đó là nói về sữa bò và 4 cách chế biến về sữa ấy. Bốn cách này khó dịch và biết cho rõ, vì xưa khác nay khác, xứ khác, tên khác. Nên ở đây tôi để nguyên chữ tô và chữ lạc, và gọi là sữa tô, sữa lạc.

(81) Coi lại ghi chú 71. Nhưng ở đây không thể lược bỏ.

(82) 1. Như đã nói trong lời tựa, 100 giới này tôi không dịch tên. 2. 100 giới này hoàn toàn y như Tỷ-kheo giới, chỉ có không hơn vài chỗ khác chữ mà cùng nghĩa.

(83) Xuống dòng như vậy là có ý sắp loại các giới điều này.

(84) Chính văn là tôn tọa. Tôn, các bản ghi chú đều nói là ngồi mà tiếng thông tục của ta gọi là ngồi chỏ hỏ. Nhưng từ điển nói là ngồi xoạc đùi. Tôi chọn nghĩa này.

(85) Để khỏi rơi đồ ăn xuống.

(86) Chính văn là canh, nhưng rõ ràng chữ ấy ở đây là đồ ăn, chứ không phải chỉ là canh như thường nói. Do vậy chữ canh ấy được dịch là đồ ăn.

(87) Chú thích: ăn không tuần tự là ngay trong bát mà đã lấy ăn lung tung.

(88) Dịch theo chú thích là một nửa vào miệng, một nửa còn lại nơi tay.

(88b) Dịch đủ là nhai cơm. Nhưng đủ mà thiếu. Bất cứ nhai gì cũng không được ra tiếng, không phải chỉ nhai cơm.

(89) Là 7 cách diệt trừ sự tranh cãi. Bảy cách này, nếu chư ni có sự tranh cãi (coi ghi chú 55) thì phải dập tắt bằng 7 cách ấy. Nói đại khái và giản dị, thì một thành phần chư ni có lỗi, nhất là lỗi gây ra tranh cãi, thì hãy diệt tranh cãi ấy bằng cách cho hiện diện (1), cho nhớ lại (2), cho tỉnh trí (3), cho tự xử (4), cho tự xét (5), cho chung xét (6), cho qua loa (7). Nghĩa là bằng cách nào đó có lý có tình mà đem lại sự phục thiệnhoan hỷ là tốt. Giới của 7 cách này là sau khi diệt tránh bằng 7 cách rồi, ai còn khơi lại thì phạm tội và bị trị.

Ký hiệu:

- Đại tạng kinh bản Đại chính tân tu. Ký hiệu là Chính, thí dụ Chính 1/100, là Đại tạng ấy, tập 1, trang 100. Mỗi trang có 3 khoảng trên giữa dưới, nhưng sách này không ghi rõ khoảng ấy và dòngchữ. 

- Tục tạng kinh bản chữ Vạn. Ký hiệu là Vạn, thí dụ Vạn 1/100 là Tục tạng ấy, tập 1 tờ 100. Mỗi tờ có 2 mặt a và b, mỗi mặt có 2 khoảng trên dưới, nhưng sách này cũng không ghi rõ những chi tiết ấy. 

- Phật học đại từ điển của Đinh Phước Bảo. Ký hiệu là Bảo, thí dụ Bảo 100, là đại từ điển ấy, trang 100. Mỗi trang có 3 khoảng trên giữa dưới, và dĩ nhiên có từ. Nhưng sách này cũng không ghi những chi tiết ấy. 

- Phật học nghiên cứu thập bát thiên, của Lương Khải Siêu. Sách có 18 bài. Ký hiệu là Siêu, thí dụ Siêu 1/10, tức sách ấy, bài 1 trang 10. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49717)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34612)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33432)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43904)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57032)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47541)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39414)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38456)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52919)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36588)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32230)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40437)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43463)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31439)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46697)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36169)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28683)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29215)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31875)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28796)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33345)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29114)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60967)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39722)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26647)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29640)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37346)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40072)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26824)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42633)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28275)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28888)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27155)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26178)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34606)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27794)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30454)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33266)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28547)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30058)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25475)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21834)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51272)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26709)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28603)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27687)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24343)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27450)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31914)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30172)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27680)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35415)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27431)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29996)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31754)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23000)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24168)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23008)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant