Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới Thiệu Tác Phẩm - Đào Nguyên

24 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 5982)
Giới Thiệu Tác Phẩm - Đào Nguyên

 

Thiền Sư Đức Huy Trùng Biên
SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY

Thích Phước Sơn và Lý Việt Dũng dịch Việt
Nhà Xuất Bản Phương Đông PL 2552-DL 2008 No 2025 Trọn Bộ 2 Tập

 

Giới thiệu tác phẩm:
SẮC TU BÁCH TRƯỢNG THANH QUY

 

sactubachtruongthanhquy-bia-smĐại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taishō) đã dành riêng một Bộ: Bộ Chư Tông - gồm hơn bốn tập, từ cuối tập 44 và các tập 45, 46, 47, 48 để tập hợp giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu của các Tông phái thuộc Phật giáo Trung Hoa, mở đầu là tác phẩm Đại Thừa Nghĩa Chương (N0 1851) của Đại sư Tuệ Viễn (Tuỳ) và sau hết là tác phẩm Sắc tu Bách Trượng thanh quy (N0 2025) do Thiền sư Đức Huy (Nguyên) trùng biên. Tất nhiên, hầu hết các tác phẩm thuộc Bộ Chư Tông kể trên đều do các Đại sư, các Học giả của Phật học Trung Hoa trứ thuật, sáng táchiển nhiên những tác phẩm ấy có giá trị, có những ảnh hưởng nhất định. Do vậy, trong quá trình hơn 50 năm Việt dịch để hình thành cùng hoàn thành Đại Tạng Kinh Việt Nam, một số trứ thuật, sáng tác thuộc Bộ Chư Tông ấy đã được Việt dịch. Chúng ta có thể kể: Tam Luận Huyền Nghĩa (N0 1852), Đại Thừa Huyền Luận (N0 1853), Nhị Đế Nghĩa (N0 1854-Đại sư Cát Tạng), Bảo Tạng Luận (N0 1857), Triệu Luận (N0 1858-Đại sư Tăng Triệu), Triệu Luận Sớ (N0 1859- Đại sư Nguyên Khang), Bát Thức Quy Củ Bổ Chú (N0 1865- Đại sư Phổ Thái), Từ Bi Đạo Tràng Sám Pháp (Lương Hoàng Sám, N0 1909), Từ Bi Thủy Sám (N0 1910), Đại Thừa Chỉ Quán Pháp Môn (N0 1924- Đại sư Tuệ Tư), Bích Nham Lục (N0 2003), Vô Môn Quan (N0 2005- Đại sư Tông Thiệu), Pháp Bảo Đàn Kinh (N0 2008), Thiếu Thất Lục Môn (Sáu cửa vào động Thiếu Thất, N0 2009), Tín Tâm Minh (N0 2010- Đại sư Tăng Xán), Chứng Đạo Ca (N0 2014- Đại sư Huyền Giác), Thiền Lâm Bảo Huấn (N0 2022- Đại sư Tịnh Thiện trùng tập), Truy Môn Cảnh Huấn (N0 2029- Đại sư Như Cẩm tục tập), Thiền Quan Sách Tấn (N0 2024- Đại sư Châu Hoành) v.v…Và hôm nay lại them một tác phẩm nữa đã được Việt dịch: Đó là bộ Sắc tu Bách Trượng thanh quy, do Hòa thượng Thích Phước Sơn cùng nhà nghiên cứu Phật học Lý Việt Dũng đồng dịch.

Sách Bách Trượng thanh quy vốn do Đại sư Bách Trượng Hoài Hải (720- 784) biên soạn vào thế kỷ thứ 8, đời Đường, là một nỗ lực nhằm tập hợp, hệ thống hoá, làm cương lĩnh sinh hoạt cho Tăng Ni tại các Tòng lâm ở Trung Hoa, sau khi Phật giáo đã du nhập và phát triển nơi đất nước rộng lớn này gần 7 thế kỷ. Bách Trượng Thanh Quy đã được lưu hành rộng khắp nơi, có giá trị như một kim chỉ nam hướng dẫn mọi sinh hoạt trong đời sống của người xuất gia, trải qua mấy trăm năm. Nhưng rồi Bách Trượng thanh quy đã bị thất lạc. Đến thập niên 30 của thế kỷ 14, đời vua Thuận Đế nhà Nguyên, thiền sư Đông Dương Đức Huy – cháu nối dòng pháp đời thứ 18 của tổ Bách Trượng đã tạo được sự hỗ trợ tốt đẹp từ triều đình nhà Nguyên, căn cứ theo các bộ Thanh Quy hiện hành, đối chiếu với truyền thống sinh hoạt nơi Tổ đình núi Bách Trượng, tham khảo các tài liệu đã trích dẫn từ Bách Trượng thanh quy, tu chính, bổ khuyết để soạn thành Bộ Thanh Quy mới mang tính hoàn chỉnh, đó là bộ Sắc tu Bách Trượng thanh quy nổi tiếng, truyền đến ngày nay.

Bản Việt dịch Sắc tu Bách Trượng thanh quy của Hòa thượng Thích Phước Sơn và Lý Việt Dũng căn cứ theo bản hiện có trong Taishō, N0 2025, T.48, được phân làm hai tập:

Tập 1: Từ quyển 1 đến quyển 4 gồm 6 chương: Chúc Ly, Báo Ân, Báo Bổn, Tôn Tổ, Trụ Trì, Lưỡng Tự.

Tập 2: Từ quyển 5 đến quyển 8, gồm 3 chương: Đại Chúng, Các Ngày Vía và Pháp Khí. Nơi mỗi chương được chia làm nhiều tiểu mục. Mỗi một tiểu mục, nhị vị Dịch giả đều thực hiện:

- In nguyên bản chữ Hán.
- Phiên âm.
- Dịch nghĩa.

Phần chú thích được tập hợp hầu hết các thuật ngữ trong thiền môn, sắp xếp theo mẫu tự ABC đặt ở cuối sách. Ngoài ra, phần Phụ lục gồm 1 bài Minh, 1 bài Ký, 2 bài Tựa cũng được Việt dịch, giới thiệu.

Tính chất “Sắc tu” của sách Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy được thể hiện rõ nơi hai chương đầu (Chúc ly, Báo ân) thuộc quyển 1, với các tiểu mục như: Lễ chúc thọ Thánh hoàng, lễ chúc thọ Hoàng thái tử…(chương Chúc Ly). Các ngày Giỗ kỵ Quốc gia, Cầu đảo…(chương Báo Ân). Hai chương Báo Bổn, Tôn Tổ thuộc quyển 2 gồm 6 tiểu mục: Lễ Phật Đản sinh, Lễ Phật Thành đạoBát Niết bàn (chương Báo Bổn), Lễ giỗ kỵ Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Lễ giỗ kỵ Tổ Tôn Tổ) nêu rõ về các ngày Lễ, ngày Giỗ mang tính căn bản, tính nhớ nguồn của người tu Phật nơi các Tự viện. Từ chương 5 (Trụ Trì) đến chương 9 (Pháp Khí) là phần chính của sách, nên sự ghi nhận, mô tả ở đấy là rất chi tiết, đầy đủ. Chẳng hạn như chương Trụ trì gồm 6 phần: công việc hằng ngày của Trụ trì, Thỉnh tân Trụ trì, Vào Tự viện mới, Thoái viện, Qua đời, Thương nghi tiến cứ tân Trụ trì, với hơn 50 tiểu mục. Hoặc chương Đại chúng (Chương 7) gồm 23 phần với hơn 30 tiểu mục. Chương Pháp khí (chương 9) gồm 7 phần (Chuông, Bảng, Mõ, Chuỳ, Khánh, Não bạc, Trống) riêng Chuông có 3 tiểu mục, Trống có 6 tiểu mục v.v…

Một điều cần được nhấn mạnh trong những tư duy liên hệ ở đây là: Bên Trung Hoa, sách Bách Trượng thanh quy của Đại sư Hoài Hải ra đời sau khi Phật Giáo Trung Quốc đã có đến 700 năm lịch sử. Và khi Sắc tu Bách Trượng thanh quy được ấn hành, phổ biến thì Phật giáo Trung Quốc đã tồn tại cùng phát triển trên 1300 năm. Ở Việt Nam, chỉ kể về thời hiện đại, từ khi có phong trào chấn hưng Phật giáo dấy khởi khắp ba miền vào thập niên 30 của thế kỷ 20, cùng với công việc chuyển dịch để hình thành Đại tạng Kinh Việt Nam, hơn 70 năm sách Sắc tu Bách Trượng thanh quy mới được Việt dịch. Thời gian rồi cứ trôi đi. Rất nhiều, rất nhiều hình tướng rồi cũng đổi thay chuyển biến. Nhưng có những thứ là bất biến, là thường trụ. Vì thường trụ trên nẻo vô thường nên cần phải được duy trì, bảo vệ. Ở đây chính là tính chất “Thanh quy”, tính chất “Thanh tịnh hoà hợp” trong sinh hoạt nơi các Tự viện. Đó có lẽ là bức thông điệp ngắn gọn mà sâu xa của sách Sắc tu Bách Trượng thanh tuy muốn gởi đến cho hàng Phật tử xuất gia trong mọi thế hệ, thời đại.

Bàn về các giáo phái của Phật giáo phát triển toàn thịnh, Giáo sư Tưởng Duy Kiều (1872-?) xác nhận: “Phật giáo tuy xuất xứ tại Ấn độ nhưng các giáo phái được mở mang rực rỡ đặc biệt và sự nghiên cứu tổ chức có hệ thống, chúng ta thấy chỉ có ở nước Trung hoa”. (Đại cương triết học Phật giáo, Thích Đạo Quang dịch, 1958, trang 61). Học giả Phạm Công Thiện đã đánh giá về 10 Huyền Môn của Tông Hoa Nghiêm: “Tất cả siêu hình học, tất cả triết học, tất cả ý niệm, tất cả hệ thống tư tưởng của phương Đông và phương Tây, tất cả hệ thống tư tưởng từ Platon, Aristote v.v… đều là một phần, một mảnh trong 10 Huyền Môn trên”. (Hố Thẳm Tư Tưởng, Nhà xuất bản An Tiêm, 1967, trang 146).

Những nêu dẫn như thế giúp chúng ta thấy, Đại Tạng Kinh Việt Nam, để có được sự phong phú ngoài công việc biên dịch ba tạng Kinh, Luật, Luận theo hệ Nam truyền và Bắc truyền cần có sự góp mặt của một số tác phẩm tiêu biểu thuộc các bộ sớ giải, chư tông, sử truyện thuộc Phật giáo Trung Hoa như Taishō đã tập hợp. Mong rằng sau Sắc tu Bách Trượng thanh quy chúng ta sẽ tiếp tục đón nhận những tác phẩmgiá trị khác được Việt dịch.

Tháng 10 năm 2008
Đào Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19838)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28948)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20678)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19412)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30479)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36414)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33195)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35539)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20966)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21910)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25251)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25784)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31236)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18551)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25132)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23759)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28921)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20851)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31443)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25537)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29713)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22511)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25706)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23268)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25731)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23717)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40591)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23345)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22438)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22082)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23499)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16955)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23279)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24301)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41085)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18972)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20470)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27720)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38105)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34058)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36783)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23987)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29171)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60129)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27595)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68710)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24509)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24473)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22676)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26347)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26520)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20805)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20045)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27542)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46404)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53569)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23591)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25555)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29244)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant