Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

5. Miễn Học (Hạ)

25 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6562)
5. Miễn Học (Hạ)

TRUY MÔN CẢNH HUẤN 
Hòa-Thượng Thích-Tâm-Châu Việt dịch


5. MIỄN HỌC (HẠ)

Phù, thánh thả hiền, tất vụ ư học. Thánh hiền dĩ hạ, an hữu bất học, nhi thành nhân tai! Học do ẩm thực, y phục dã. Nhân hữu thánh hồ, hiền hồ, chúng thứ hồ. Tuy tam giả dị, nhi cơ sách thực, khát sách ẩm, hàn sách y, tắc bất dị hồ! Học dã, khởi đắc dị hồ! Duy cầm thú thổ mộc bất tất học dã!

Ô hô, ngu phu thị ẩm thực nhi bất đãi, mạo hóa lợi nhi bất hưu. Nãi tựu ư học, triêu học nhi tịch đãi giả, hữu hỹ. Phù hữu xuân học, nhi đông đãi giả, hữu hỹ. Phù, cẩu như thị ẩm thực, mạo hóa lợi chi bất tri đãi giả, hà hoạn ư bất vi bác văn hồ, bất vi quân tử hồ? – Viết: thế hữu chí ngu giả, bất biện thúc mạch chi dị, bất tri hàn thử chi biến, khởi linh học da, khởi khả giáo da! – Viết: chí ngu do bất giáo dã, do bất học dã. Cẩu sư giáo chi bất quyện, bỉ tâm chi bất đãi giả, thánh vực khả tê nhi thăng hồ. Hà ưu thúc mạch chi bất biện hồ. Thả ngu giả, khát nhi tri ẩm, cơ nhi tri thực, hàn nhi tri y, ký tri tư tam giả, tắc dữ thảo mộc thù hỹ. Ô hô, bất khả học dã, bất khả giáo dã!

VĂN KHUYÊN GẮNG HỌC (Bài Dưới)

Ôi, thánh và hiền quyết định phải chuyên về việc học. Từ bậc thánh hiền trở xuống, có ai không học mà thành người được ư? Học ví như ăn cơm, áo mặc. Loài người có thánh, hiền và những người thường. Tuy ba bậc ấy có khác nhau, nhưng đói tìm thức ăn, khát tìm nước uống, lạnh tìm áo mặc, có gì khác nhau đâu. Há việc học lại khác được chăng. Chỉ có chim muông, cây cỏ không cần học mà thôi! Than ôi, kẻ ngu-phu ham ăn uống không lười biếng, tham hóa-lợi không ngừng nghỉ. Nhưng, nói đến việc học thì có người buổi sớm học, buổi chiều lười, mùa xuân học, mùa đông nghỉ. Nếu như, ham ăn uống, tham hóa-lợi, không biết lười biếng, thì lo gì không làm người nghe rộng, làm bậc quân tử ư? Có người nói: “Ở đời có người chí ngu, không rõ lúa thúc, lúa mạch khác nhau ra sao, không biết lạnh nóng thay đổi ra sao, làm sao khiến người ấy học và làm sao dạy họ được?” Đáp: “Người chí ngu do không dạy, do không học. Nếu thầy giáo không mỏi mệt, tâm người kia không lười biếng thì cõi thánh có thể đi đến và lên tới được. Như vậy, lo gì không biện rõ được lúa thúc, lúa mạch. Vả lại, người ngu, khát biết uống, đói biết ăn, lạnh biết tìm áo. Đã biết được ba vấn đề ấy, tức là đã khác loài thảo mộc rồi, sao lại không thể học được, sao lại không thể dạy được!”

Nhân chi chí ngu, khởi bất năng nhật ký nhất ngôn da! Tích nhật chí nguyệt, tắc ký tam thập ngôn hỹ. Tích nguyệt chi niên, tắc ký tam bách lục thập ngôn hỹ. Tích chi sổ niên nhi bất đãi giả, bất diệc cơ ư quân tử hồ. Vi ngu, vi tiểu nhân nhi bất biến giả, do bất học nhĩ. Trung-Dung-Tử vị nhiên thán viết: “Ngô thường kiến sỉ, trí chi bất đãi, tài chi bất mẫn, nhi chuyết ư học giả; vị kiến sỉ ẩm thực bất như tha nhân chi đa, nhi chuyết ẩm thực giả. Chuyết ẩm thực tắc vẫn kỳ mệnh, hà tất sỉ ư bất đa da. Chuyết học vấn tắc đồng phù cầm thú thảo mộc, hà tất sỉ tài trí chi bất như tha nhân da. Cẩu sỉ tài trí bất như, tắc bất học, tắc diệc ưng sỉ ẩm thực bất như tha nhân, tắc phế ẩm thực. Dĩ thị quán chi, khởi bất đại ngộ hồ!

Người chí-ngu, chả lẽ, mỗi ngày không ghi nhớ được một lời nói hay sao? Gom góp từng ngày cho đến hết tháng, đã ghi nhớ được ba mươi lời. Gom góp từng tháng cho đến hết năm, tức là đã ghi nhớ được ba trăm sáu mươi lời. Không lười biếng, chỉ gom góp vài năm, hẳn là đã gần với những người nghe rộng rồi! Lại nữa, mỗi ngày chỉ giữ lấy và vừa học, vừa làm một điều thiện nhỏ, gom góp từng ngày đến hết tháng, thân đã có ba mươi điều thiện. Gom góp từng tháng đến hết năm, tức là thân đã có ba trăm sáu mươi điều thiện. Không lười biếng, gom góp trong vài năm, hẳn là đã gần với bậc quân-tử vậy. Người ngu, kẻ tiểu nhân không thay đổi được, bởi vì họ không chịu học. Trung-Dung-Tử bùi ngùi mà than rằng: “Tôi thường hổ thẹn, trí không kịp người, tài không lanh lẹ, mà lại bỏ dở việc học”! Chưa thấy ai hổ thẹn về việc ăn uống không nhiều bằng người, mà lại ngưng ăn uống. Ngưng ăn uống thì thân-mệnh mất, hà tất lại hổ thẹn không ăn nhiều bằng người. Ngưng học vấn thì cùng như chim muông, cây cỏ, hà tất hổ thẹn là tài trí không bằng người. Nếu biết hổ thẹn là tài trí không bằng người mà không học, thì cũng như người hổ thẹn về việc ăn uống không bằng người rồi bỏ ăn uống. Lấy những việc đó mà xem xét, há chẳng lầm lắm vậy ư!

Ngô diệc chí ngu dã. Mỗi sủy tài dữ trí bất đãi tha nhân giả viễn hỹ, do tri ẩm thực chi bất khả chuyết, nhi bất cảm đãi ư học dã. hành niên tứ thập hữu tứ hỹ, tuy bệnh thả khốn, nhi thủ vị thường thích quyển. Sở dĩ cụ đồng ư thổ mộc cẩm thú nhĩ. Phi cảm cầu trăn thánh vực dã, diệc phi cầu hồ văn đạt dã. Tuy hoặc bàng dương hộ đình, di do nguyên dã, dĩ tạm di dưỡng, mục quan tâm tư, diệc vị thường cảm phế ư học dã. Do thị, đăng sơn tắc tư học ký cao, lâm thủy tắc tư học kỳ thanh, tọa thạch tắc tư học kỳ kiên, khán tùng tắc tư học kỳ trinh, đối nguyệt tắc tư học kỳ minh. Vạn cảnh vô ngôn nhi thượng khả học. Nhân chi năng ngôn, tuy vạn ác tất hữu nhất thiện dã. Sư nhất thiện dĩ học chi, kỳ thùy viết bất nhiên hồ.

Tôi cũng là người rất ngu. Mỗi khi tôi so sánh tài và trí của tôi cách người khá xa, không theo kịp được, tôi liền nghĩ rằng, việc ăn uống không thể ngưng được, thì việc học của tôi cũng không dám lười biếng. Năm nay tôi bốn mươi tư tuổi. Tuy đau yếu, mỏi mệt, nhưng tay tôi chưa từng rời quyển sách. Vì tôi sợ rằng, không khéo, tôi sẽ sa xuống cùng với chim muông, cây cỏ vậy. Tôi không dám cầu tới cõi thánh. Tôi cũng không dám cầu là người thông đạt. Tôi chỉ quanh co trong sân cỏ, lẩn thẩn nơi đồng nội, để tạm di dưỡng. Mắt xem, tâm nghĩ, nhưng tôi vẫn chưa từng dám bỏ việc học. Do vậy, khi lên núi, tôi nghĩ đến cái học về cao siêu. Khi xuống nước tôi nghĩ đến cái học về trong sạch. Ngồi trên tảng đá tôi nghĩ đến cái học về bền vững. Xem cây tùng tôi nghĩ đến cái học về trinh-tiết. Ngắm bóng trăng tôi nghĩ cái học về sáng suốt. Vạn cảnh um tùm, mỗi thứ đều có sở trường, đều có thể tìm được thầy ở trong đó mà học. Vạn cảnh không nói, ta còn có thể học được, huống chi, con người hay nói, muôn điều ác phải có một điều thiện. Một điều thiện làm thầy, để cho ta học, ai dám bảo rằng là không được!

Trung-Dung-Tử viết: “Thế hữu cầu chi nhi hoặc bất đắc giả dã. Thế hữu cầu chi nhi tất đắc giả dã. Cầu chi nhi hoặc bất đắc giả, lợi dã. Cầu chi nhi tất đắc giả, đạo dã. Tiểu nhân chi ư lợi dã. Tuy hoặc vạn cầu nhi vạn bất đắc, nhi cầu chi di dũng. Quân tử chi ư đạo dã, cầu chi tất đắc, nhi vọng đồ hoài khiếp, tự niệm lực bất túc giả. Thử cầu lợi tiểu nhân chi tội nhĩ”. Trọng-Ni viết: “Nhân viễn hồ tai, ngã dục nhân tư nhân chí hỹ”. Ngôn cầu chi nhi tất đắc dã.

Trung-Dung-Tử nói: “Ở đời, có thứ cầu không được. Ở đời, có thứ cầu quyết được. Cầu không được, là lợi. Cầu quyết được, là đạo. Tiểu-nhân ưa cầu lợi. Tuy vạn lần cầu, vạn lần không được, nhưng sự mong cầu vẫn mạnh. Người quân-tử hướng tâm vào đạo, cầu là quyết được, nhưng, trông vào đường đi, mang lòng khiếp sợ, tự nghĩ sức không đủ, thì đó thuộc về cái tội, như kẻ tiểu-nhân cầu lợi vậy. Ngài Trọng-Ni nói: “Điều nhân rất xa, nhưng, ta muốn làm điều nhân, điều nhân ấy tự đến”. Đó nói là cầu quyết được vậy.

Chú thích:

1. Đại-Viên Thiền-Sư ở núi Quy-Sơn, tên là Linh-Hựu, sinh ở Trường-Khê, Phúc-Châu. Ngài xuất gia năm 15 tuổi, nghiên cứu giáo lý tại chùa Hưng-Long, Hàng-Châu. Năm 25 tuổi, ngài tham học nơi ngài Bách-Trượng. Sau về dựng chùa tại núi Quy-Sơn. Ngài mất năm 83 tuổi, nhà vua sắc phong cho tên thụy là Đại-viên Thiền-Sư.

2. Bốn đại: Đất, nước, lửa, gió.

3. 6 bề thân tức là cha, mẹ, anh, em, vợ, con...

4. Thời quang là chỉ cho ánh sáng sủa thời gian.

5. Ba việc thường dùng tức là cơm ăn, áo mặc, nơi ở.

6. Ba cõi hữu lậu (tam hữu) tức là dục hữu, sắc hữuvô sắc hữu.

7. Bốn ơn: ơn cha mẹ, sư trưởng, ơn quốc gia, ơn xã hội và ơn Tam Bảo.

8. 25 hữu tức là 25 cảnh hữu tình. “Hữu” nghĩa là có nhân, có quả. Nơi ấy chúnh sinh sinh ra do quả báo của mình. 25 hữu trong ba cõi (dục giới, sắc giới, vô sắc giới): địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, a tu la, Đông thắng thần châu, Tây ngưu hóa châu, Bắc câu lư châu, Nam thiệm bộ châu, Tứ thiên vương thiên, Đao lợi thiên, Diệm ma thiên, Đâu suất thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên, Sơ thiền thiên, Đại phạm thiên, Nhị thiền thiên, Tam thiền thiên, Tứ thiền thiên, Vô tưởng thiên, Tịnh cư (A na hàm) thiên, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

9. Ba vòng (tam luân) tức là vòng quanh trong ba cõi: dục giới sắc giới, vô sắc giới. Tam luân còn chỉ cho hoặc, nghiệp, khổ.

10. Ấm duyên

11. Sát na: chỉ cho thời gian rất nhanh.

12. Sáu giặc (lục tặc) chỉ cho 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) dính líu với 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) cướp đoạt mất những cống đức pháp tài.

13. Sáu đạo (lục đạo): Trời, người, a tu la, địa ngục, ngã quỷ, súc sinh.

14. Đời tự phù hư: có nghĩa là đời đã có tính chất trôi nổi, giả dối không thực.

15. Ngài Minh-Giáo-Tung tức Phật-Nhật Khế-Tung Thiền-Sư, tự Trọng-Linh, hiệu Tiền-Tử ở Hàng-Châu. Ngài họ Lý ở Đàm-Tân, Đằng-Châu. Ngài nối pháp Động-Sơn, Hiểu-Thông Thiền-Sư, thuộc đời thứ 10 của phái Thanh-Nguyên. Ngài xuất gia năm 7 tuổi, 13 tuổi đắc độ, 19 tuổi đi tham học các nơi. Ngài thường đem theo tượng Quán-Âm và mỗi ngày niệm danh hiệu Bồ tát một vạn lần. Ngài làm bộ luận Nguyên-Giáo để chống lại sự bài bác của Hàn-Dũ. Vua Tống-Nhân-Tôn ban cho ngài bảo hiệu là “Minh-Giáo”.

16. Năm vị: Hương vị trong thức ăn có: mặn, đắng, chua, cay, ngọt. Nhưng 5 vị nơi đây, Thiền-Sư chỉ cho 5 trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc.

17. 12 bộ kinh: Tức là 12 thể loại trong kinh: 1) Tu đa la (Sùtra): Khế kinh hay Trường hàng. 2) Kỳ dạ (Geya): Ứng tụng hay Trùng tụng. 3) Già đà (Gàtha): Phúng tụng hay Cô khởi tụng. 4) Ni đà na (Nidàna): Nhân duyên. 5) Y đế mục đa (Itivrtaka): Bản sự. 6) Xà đa già (Jàtaka): Bản sinh. 7) A tỳ đạt ma (Adbhuta-dharma): Vị tằng hữu. 8) A ba đà na (Avadàna): Thí dụ. 9) Ưu bà đề xá (Upadesa): Luận nghĩa. 10) Ưu đà na (Udàna): Tự thuyết. 11) Tỳ phật lược (Vaipulya): Phương quảng. 12) Hòa già la (Vyàkarana): Thụ ký.

18. Ly niệm thanh tịnh: Chỉ cho bậc A la hán.

 19. Cô-Sơn-Viên Pháp-Sư, tức Thích-Trí-Viên, tự Vô-Ngoại, tự hiệu là Trung-Dung-Tử. Ngài tu học nơi Phụng-Tiên, Thanh-Nguyên. Sau ngài ở Tây-Hồ, Cô-Sơn viết sách, tiếp chúng tới học. Ngài viên tịch năm 47 tuổi. Vua Tống-Thần-Tôn ban pháp-thụy cho ngài là “Pháp-Tuệ Đại-Sư”.

20. Tuyết-Sơn cầu pháp: Tiền thân của đức Thích-Tôn, tu hạnh Bồ Tát tại Tuyết Sơn gieo mình cho quỉ la sát ăn để cầu nửa bài kệ.

21. Thiện-Tài tầm sư: Ngài Thiện-Tài cần cầu tham học nơi 53 bậc thiện-tri-thức.

WP: Chân Thiền

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12510)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10402)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11664)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28832)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11462)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17458)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53089)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21414)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19263)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12429)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26058)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13329)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14395)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13142)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11620)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11632)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14518)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20496)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19002)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18674)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12202)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13876)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15050)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14004)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11411)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17206)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14988)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20228)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14631)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15077)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13007)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11677)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13179)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18355)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11512)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12897)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18440)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant