Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 4 Công Ích Thù Thắng

30 Tháng Sáu 201000:00(Xem: 6980)
Chương 4  Công Ích Thù Thắng

BÁT QUAN TRAI GIỚI THẬP GIẢNG
八 關 齋 戒 十 講
Pháp -sư Diễn Bồi soạn
Thích-Thiện-Huệ dịch Việt

Chương 4 
Công ích thù thắng 

 
Thọ giới, bất cứ giới nào cũng có công đức của nó. Thọ Ngũ Giớicông đức của Ngũ Giới. Thọ Bát Giớicông đức của Bát Giới. Chư vị hiện thọ Bát Giới, công đức như thế nào? Trước hết, phải so sánh với công đức của Ngũ Giới thì mới rõ được công đức thù thắng của sự thọ trì Bát Quan Trai Giới và mới có thể kiên quyết tín nguyện, thọ trì

Trong kinh nói: “Giả sử có người nào phát tâm dùng y phục, ẩm thực, thuốc men, giường nằm cúng dường cho chúng sanh trong khắp bốn phương, như vậy cho đến cả trăm năm trường kỳ cúng dường, công đức người này tất nhiên không thể nghĩ bàn. Nhưng cho dù công đức có nhiều đến đâu đi nữa, cũng không bằng công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới trong vỏn vẹn một ngày đêm”. Giới đức cao tột, thù thắng, điều này ở đây có thể chứng minh

Thọ trì Ngũ Giới, tuy có công đức lớn, nhưng so với công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới còn kém xa. Trong Trí Độ Luận, ngài Long Thọ thí dụ rất hay: “Thí dụ như vị tướng đem quân đi đánh trận. Nếu khiếp nhược nhát gan thì dầu có nhiều năm tác chiến cũng không thể tạo công lao phá địch. Còn nếu là viên dũng tướng uy mãnh, mau lẹ phá tan cường địch, chỉ trong một ngày lập nên công lớn trong thiên hạ. Phải hiểu công đức của Ngũ GiớiBát Giới không đồng, cũng giống như vậy”. Bởi Ngũ Giới chỉ có thể lìa tà dâm, chưa thể trừ tận căn của Dục. Bát Giới đoạn trừ hết dâm, không còn bị dục nhiễm làm loạn, sự tướng đồng với vô lậu. Thời gian tuy chỉ một ngày một đêm, song được rất nhiều giới hạnh, cho nên công đức vượt xa Ngũ Giới

Tuy nhiên, cũng có điểm phải cần nói rõ. Bất luận thọ trì Ngũ Giới hay Bát Giới, theo Đại Trí Độ Luận, điều quan trọng nhất là phải phát tâm rộng lớn. Có phát tâm rộng lớn thì tuy giữ giới một ngày đêm vẫn đạt được phúc đức thù thắng, nếu không phát tâm rộng lớn dầu giữ Ngũ Giới đến trọn đời, cũng chỉ được phúc đức hữu lậu. Thế nên các vị phát tâm thọ Bát Quan Trai Giới, không nên vì giải thoát hay công đức riêng mình, mà nên vì tất cả chúng sanh thọ giới hạnh này, nghĩa là không xem công đức thọ giớicủa riêng mình, mà coi như của chúng sanh chung có, nguyện cùng chúng sanh đồng hướng đến quả vô thượng Phật đạo. Như vậy mới có thể đạt được công đức tối thắng. Đại Thừa Phật Giáo rất đặc sắc ở chỗ muốn mỗi người đệ tử bất luận làm việc công đức lành nào, cũng vì nghĩ tưởng đến hết thảy chúng sanh, không bao giờ vì lợi ích riêng tư của mình. 

Hoằng Nhất Luật Sư nói: “Ngũ Giới, Bát Giới đều thuộc về Tiểu Thừa, thế nhưng muốn thọ Giới Phẩm phải phát Đại Bồ Đề tâm. Chưa thể riêng tu thiện cho mình, thiên cầu tịch diệt, tuy vẫn Khai, Giá, Trì, Phạm, song không khác Thanh Văn. Phải nên đồng như bậc Đại Sĩphát tâm hành thọ, như hằng tin trong sạch, nỗ lực tu tiến”. Luật Sư lại nói: “Bát Giới thông cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Tiểu Thừa như các luận Thành Thật. Đại Thừa tức Bồ Tát Bát Giới, như các kinh Văn Thù Vấn hoặc Bát Chủng Trưởng Dưỡng Công Đức đều nói rõ. Chúng ta đã thọ Bồ Tát Giới, nay thọ Bát Giới tức là Đại Thừa Bát Giới vậy”. 

Cho nên đã thọ Bồ Tát giới, cũng có thể thọ Bát Quan Trai Giới. Ai bảo thọ Bồ Tát giới rồi, khỏi cần thọ Bát Quan Trai Giới thực là lầm. Cứ như lời Hoằng Nhất Đại Sư thọ Bồ Tát giới và thọ Bát Quan Trai Giới đã không lập lại, cũng không trở ngại nhau. 

Công đức thọ Bát Quan Trai Giới thuộc vô lậu, và còn là Đại Thừa nên công đức hữu lậu thế gian không thể so được. Vì vậy, đức Phật đã từng trách mắng Đế Thích. Một hôm, Đế Thích nghe đức Phật nói các công đức thù thắng của Bát Quan Trai Giới, liền vui mừng tán thán: “Tháng Sáu ngày thần du, phụng hành tám Trai Giới, công đức thù thắng này, đồng với tôi không khác”. Một số người nghe tu Bát Quan Trai được công đức đồng như Đế Thích rất hoan hỷ, song đức Phật quở Đế Thích: “Ông nói không đúng đạo lý. Ông cũng không đủ tư cách để nói lời này. Chỉ có bậc A La Hán mới nói như vậy được! Vì sao vậy? Đế Thích ông nên biết: Ông đã không xa rời các phiền não tham, sân, si, cũng không giải thoát được khổ lớn sanh, lão, bệnh, tử, biết bao ưu sầu khổ não còn vây chặt thân tâm ông. Sao lại dám bảo thọ trì Bát Quan Trai Giới được công đức như ông? Thực ra, công đức của ông chỉ có thể cảm thọ được quả báo Đế Thích, còn công đức của người thọ trì Bát Quan Trai Giới đủ chứng được quả Bồ Đề xuất thế của tam thừa thánh. Như bậc A La Hán xả gánh nặng sanh tử mới có thể bảo công đức của người thọ Bát Quan Trai Giới đồng với ta không khác”. Như vậy, chúng ta thấy rõ: phúc đức của Đế Thích so với công đức vô lậu của Bát Quan Trai Giới thật là một trời, một vực. 

Hơn nữa, công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới chẳng những tương đồng với các công đức A La Hán, mà còn là Bồ Tátthế gian. Trong Văn Thù Vấn Kinh nói: “Bồ Tát thế gian chính là tám giới” (Thế gian Bồ Tát, Bát Giới giả thị). Vậy đủ thấy muốn làm vị Bồ Tátthế gian cũng chả khó mấy. Chỉ cần phát đại Bồ Đề tâm thọ trì Bát Giới liền thành thế gian Bồ Tát. Công đức thọ trì Bát Giới còn hơn nữa. Như trong kinh Xử Thai nói: “Bát Quan Trai Giớicha mẹ chư Phật”. Có thể nói công đức này đồng với chư Phật, thậm chí chư Phật đều do Bát Quan Trai Giới mà sanh. Kinh Kim Cương nói: “Tất cả chư Phật và pháp A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề đều từ kinh này mà ra”. Dựa theo câu này, có thể bảo rằng: “Hết thảy chư Phật và các pháp Tam Miệu Tam Bồ Đề đều do từ Bát Quan Trai Giới mà ra”. Như thế, công đức thù thắng của Bát Quan Trai Giới thực là không thể nghĩ bàn. 

Luận Bồ Tát Bổn Sinh Man cũng nói rõ công đức Bát Giới như sau: “Nếu có người có thể trì pháp Bát Trai Giới, tuy họ không mặc y phục hoa lệ, nhưng họ có y phục tàm quý (3). Phải biết y phục tàm quý trang nghiêm hơn hết mọi y phục. Người thọ trì Bát Giới trai pháp, tuy không có bức tường ngăn chặn trộm cướp bên ngoài lẻn vào trộm của báu, nhưng họ có thành trì vô hình, chế ngự oán tặc lục căn cướp đoạt công đức nội tâm”. Nói theo Phật pháp, của cải có mất cũng không đáng tiếc. Pháp Bảo mất mới đáng tiếc. Muốn Pháp Bảo không bị trộm mất, phải xây tường Trai Giới. Thọ Bát Quan Trai Giới dù là chủng tộc thấp hèn như Chiên Đà La, nhờ thọ Bát Giới cũng ở địa vị của thánh, trải qua một thời gian chứng thành Thánh Quả. Nhờ vậy, Bát Giới thật cao quý. Ngày xưa, Ấn Độ cho anh lạc là món trang sức cao quý. Người thọ Bát Quan Trai Giới tuy không có anh lạc, châu bảo, nhưng nhờ có Bát Giới Trai Pháp trên thân nên được đủ các thiện pháp công đức trang nghiêm thân. Hơn nữa, loại trang nghiêm này không một bảo vật nào ở thế gian có thể bì được. Kinh Ưu Bà Tắc Giới, phẩm Bát Giới Trai nói: “Bát Giới Trai tức chính là anh lạc trang nghiêm vô thượng Bồ Đề”. Như vậy, người thọ trì Bát Giới Trai Pháp tuy không có thất bảo, kim, ngân, nhưng chứa đủ bảy pháp tài (4) của nhân thiên, không cần cầu bè cũng băng qua được hiểm đạo. 

Công đức thọ trì Bát Giới thù thắng như vậy, cho nên trong kinh cũng nói: “Dùng tất cả trân bảo của mười sáu nước lớn cúng dường các tỳ kheo tăng không bằng công đức trì giới một ngày đêm”. Tát Bà Đa Luận cũng nói: “Nếu có vị vua Diêm Phù Đề hành hạnh bố thí rộng lớn, khiến cho hết thảy nhân dân được đủ các bảo vật, công đức này rất lớn, nhưng so với công đức thọ trì Bát Giới Trai Pháp, công đức vua Diêm Phù Đề chưa bằng một phần mười sáu”. Các kinh, luận sở dĩ tán thán công đức Bát Giới như vậy vì đây là căn bản của xuất gia lìa tục, là hạt giống đắc tam thừa Bồ Đề, cho đến thành Phật cũng do một niệm thọ trì Bát Giới Trai Pháp

Thọ trì Bát Giới công đức thù thắng như vậy, ắt tự nhiên có thể trừ diệt các tội. Điều này trong kinh Thiện Sanh nói rất rõ: “Thọ trì Bát Giới có thể trừ được các tội nặng Ngũ Nghịch”. Kỳ dư, các tội khác dĩ nhiên không thành vấn đề. Ngũ Nghịch gồm các tội: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật ra máu. Các tội nặng này tương lai phải chịu quả khổ Vô Gián. Nhưng hiện tại nhờ thọ trì Bát Giới, tội nặng Ngũ Nghịch liền được tiêu trừ, công đức thù thắng của Bát Trai Giới quả khó nghĩ bàn. Trong Trung A Hàm Kinh cũng nói: “Hàng thánh đệ tử đa văn, khi trì tám giới này, ghi nhớ mười hiệu của Như Lai, nếu có các điều bất thiện nghĩ ác đều được trừ diệt”. Hàng đa văn thánh đệ tử còn phải nương công đức này để diệt trừ tội khiên, tu thiện tiến đức, vậy những ai muốn trừ tội tăng phúc nên nhân cơ hội này thọ trì Bát Trai Giới

Thọ trì Bát Trai Giới được công đức thù thắng như vậy, không phải là vấn đề, vấn đề ở chỗ trong thời gian ngắn ngủi một ngày một đêm làm sao cho tịnh niệm tương tục, để gìn giữ cho thân tâm thanh tịnh, nhờ vậy mới đạt được công đức như nói ở trên. Nếu không, do vì tâm không nhất niệm, tưởng Đông nghĩ Tây, không chú tâm vào Trai Giới, nên công đức không sao thành tựu! Cho nên trong một ngày đêm thọ Trai Giới, phải buông bỏ hết mọi việc thế tục, đem trọn thân tâm tắm gội trong Phật pháp, chịu sự thấm nhuần của Phật pháptương ưng với pháp Phật. Nếu chỉ làm hùa theo người, thọ giới thì thọ giới, nhưng chưa hề chuyển theo giới, kết quả một ngày trôi qua luống không, thực là đáng tiếc. 

Tịnh niệm cũng tương tục, cố nhiên là phương pháp rất tốt để bảo trì cho Bát Giới thanh tịnh. Ngoài đây ra, trong Thành Thật Luận nói: “Có năm pháp có thể khiến cho giới hạnh được thanh tịnh. Thứ nhất, trong thời gian thọ giới có thể đúng pháp hành Thập Thiện. Thứ hai, trong thời gian thọ giới, đoạn trừ hết các điều gây não hại cho chúng sanh từ trước hay sau này, không còn làm chúng sanh chịu khổ nữa. Thứ ba, trong thời gian thọ giới, không để cho ác tâm làm não loạn nội tâm, tức không để cho các niệm không chánh đáng khởi lên, để khỏi trở ngại cho sự thanh tịnh của giới hạnh. Thứ tư, trong khi thọ giới luôn luôn nhớ tưởng Phật, Pháp, Tăng, Giới, Xả, Thiên để thủ hộ cho giới hạnh. Dựa vào công đức của sáu niệm này, bảo trì cho giới hạnh thanh tịnh. Thứ năm, trong khi thọ giới, nguyện đem công đức trì giới này hồi hướng đến Cứu Cánh Niết Bàn, quyết không dùng công đức này cầu phước báo nhân thiên. Thọ Trai Giới như vậy giới hạnh ắt thanh tịnh”. 

Tỳ Bà Sa Luận phân biệt công đức thọ trì Bát Giới có được đại quả hay không bằng năm câu: 

- Thứ nhất, như có người tự tại thọ Trai Giới này, biết nhà bếp sắp sát sanh để nấu cho mình ăn, người ấy bảo đầu bếp: “Hôm nay tôi thọ Trai Giới nên không sát sanh, hãy cất đi, để mai làm chưa muộn”. Đó là quan niệm chung của mọi người. Lại có người lính chiến, bắt địch quân giải đến thượng quan, xin xử tội kẻ địch. Thượng quan bảo: “Hôm nay tôi thọ Trai Giới không thể sát sanh, nhốt lại mai giết cũng được”. Thọ Bát Trai Giới kiểu này, căn bổn nghiệp đạo tuy thanh tịnh, song cận phận thì không thanh tịnh. Đức Phật bảo tuy là thắng nghiệp, song không đủ để chứng đại quả. 

- Thứ hai, lại có người thọ Bát Trai Giới, chẳng những căn bổn nghiệp đạo rất thanh tịnh mà cận phận cũng rất thanh tịnh. Nhưng bị dục tầm tư (5), khuể tầm tư và hại tầm tư gây tổn hại. Thọ Trai Giới như thế vẫn chưa phải là lý tưởng. Phải biết ba loại tầm tư: dục, khuể và hại, là một thứ ác phân biệt. Có chứa sự phân biệt bất chánh này nội tâm không sao thanh tịnh được, và dĩ nhiên ảnh hưởng đến sự thủ trì giới hạnh. Chính do cái ác tầm tư nhiễu loạn tâm linh này mà đức Phật nói người phát tâm thọ giới và giới họ thọ tuy là thắng nghiệp, nhưng không thể nhờ đó mà đạt được đại quả. 

- Thứ ba, còn có người thọ Trai Giới này chẳng những căn bổn nghiệp đạo và cận phận rất thanh tịnh, hơn nữa, cũng không bị ác tầm tư gây tổn hại, tất nhiên rất khó được. Nhưng vẫn không lý tưởng vì họ chưa khởi được chánh niệm, không nhất tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Xả, niệm Thiên, và vẫn còn hiện khởi các niệm bất chánh đáng. Do vì vọng niệm không ngừng hiện hành nên tâm không sao an trụ được nơi tịnh giới, do đó, không thể cầu thanh tịnh giới hạnh được. Chính vì vậy, đức Phật nói người phát tâm thọ giới này và giới họ thọ tuy là thắng nghiệp, song không chứng được đại quả. 

- Thứ tư, lại có người thọ trì Bát Trai Giới, căn bổn nghiệp đạo cũng như cận phận đều thanh tịnh, cũng không bị ác tầm tư làm tổn hại, lại hay đề khởi chánh niệm, thực là nan đắc, nhưng vẫn không mỹ mãn. Vì họ vẫn không thể đem công đức thọ trì Bát Giới hồi hướng về quả xuất thế giải thoát, chỉ mong cầu sanh thiên hưởng lạc. Do vậy, đức Phật nói người thọ giới này và giới họ thọ tuy là thắng nghiệp, song không chứng được đại quả. 

- Thứ năm, lại có người thọ giới này, nghiệp đạo căn bổn và cận phận đều thanh tịnh, cũng không bị ác tầm tư tổn hại, nhiếp thọ chánh niệm, hồi hướng giải thoát. Đức Phật bảo người này và giới họ thọ chẳng những là tu thắng nghiệp mà còn chứng được đại quả. Theo Tiểu Thừagiải thoát Niết Bàn, theo Đại ThừaPhật Quả Bồ Đề

Thọ trì Bát Giới xác thực có công đức thù thắng, nên phải thường phát tâm phụng hành Bát Giới. Có điều trong xã hội máy móc này, nếu cứ vào lục trai nhật thì ít có người thọ được. Vì vậy, tối thiểu mỗi tháng một lần. Hoằng Nhất Luật Sư nói: “Nếu thấy một tháng sáu ngày hơi nhiều, có thể giảm xuống một hay hai ngày. Bởi chỉ cần một ngày còn có công đức lớn, huống là cả sáu ngày”. Tuy nhiên khi phát tâm thọ giới, bất luận là trước hay sau, hoặc trong khi thọ giới, phải nghiêm túc dùng tám giới rửa sạch thân tâm khiến thân tâm tương ưng với giới. Như vậy mới được thanh tịnh và đủ công đức thù thắng

_______________________
(3) Tàm quý: là hai thiện pháp đứng đầu trong mười một thiện pháp của tâm sở. Tàm có nghĩa là tự thẹn mình, quý có nghĩa hổ thẹn với người. 

(4) Thất pháp tài: Gồm bảy tài bảo dùng làm pháp xuất thế, còn gọi là Thất Thánh Tài

1. Tín tài: Tín mới thọ trì chánh pháp được, nên Tín chính là tư lương (tài) để đến quả Phật. 
2. Tiến tài: Chưa thấy lý Chân Đế, song nhất tâm tinh tiến cầu đạo xuất thế, nên là tư lương để thành Phật
3. Giới tài: Giới là căn bản của đạo giải thoát, có công năng ngăn chận và phòng hộ các lỗi quấy nơi thân khẩu ý nên là tư lương để thành đạo
4. Tàm Quý tài: Do tàm quý nên không tạo ác nghiệp, nên là tư lương để đến quả Phật. 
5. Văn tài: Văn đứng đầu trong Tam Huệ, nhờ Văn nên Tư, có Tư mới có Tu, nếu được nghe Phật thuyết pháp, ắt khai phát diệu giải, tu hành đúng Pháp, nên là tư lương để thành đạo quả. 
6. Xả tài: Xả tức là xả thí, nếu vận dụng được tâm bình đẳng, không tác ý thương ghét, tùy sự cầu xin mà ban cấp tài vật hay thân mạng không chút luyến tiếc, nên là tư lương để thành đạo
7. Định Huệ tài: Định HuệChỉ Quán, Định nên nhiếp tâm không loạn, đình chỉ vọng niệm. Huệ nên quán chiếu các pháp, phá tan tà kiến, nên là tư lương để thành Phật Quả. 

(5) Tầm tư: Cựu dịchGiác Quán. Thô tư gọi là Giác, tế tư gọi là Quán. Hai thứ này phương hại đến định tâm nên tùy theo có tầm tư hay không mà xét đoán định tâm sâu hay không. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19848)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 28957)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20688)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19422)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30487)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36422)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33224)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35556)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 20967)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21913)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25256)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25792)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31249)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18562)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25139)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23766)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28931)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20860)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31445)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25547)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29719)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22521)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25715)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23274)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25738)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23720)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40599)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23347)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22444)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22090)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23502)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16962)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23284)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24308)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41094)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 18977)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20475)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27724)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38114)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34066)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36786)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 23996)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29178)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60135)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27602)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68734)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24512)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24477)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22693)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26353)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26528)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20821)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20052)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27551)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46420)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53575)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23597)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21082)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25565)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29257)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant