Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 2 Chỉ Cách Từ Sinh Diệt Hội Nhập Chân Như

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6418)
Phần 2 Chỉ Cách Từ Sinh Diệt Hội Nhập Chân Như

LUẬN KHỞI TÍN
HT. Thích Trí Quang dịch giải

Phần 2 
Chỉ Cách Từ Sinh Diệt Hội Nhập Chân Như

Chính Văn.-

Bây giờ chỉ cái cách từ mặt sinh diệt mà hội nhập ngay vào mặt chân như. Cách ấy là cứu xét vật với tâm nơi cái thân năm hợp thể (125) này, cùng với sáu đối cảnh trong vật với tâm ấy, tất cả đều siêu việt phân biệt. Phân biệt mà cứu xét đến cùng thì cũng không có gì có thể thủ đắc. Kẻ lầm đường thì lầm đông là tây, trong khi đông và tây không đổi theo cái lầm ấy; chúng sinh cũng vậy, vì bất giác mà cho tâm thể là phân biệt, nhưng sự thật tâm thể không thác loạn theo phân biệt ấy. Do vậy, nếu biết chiêm nghiệm tâm thể siêu việt phân biệt thì thế là thích ứng mà hội nhập chân như.

Lược Giải.-

Đến đây nên nói vói lại chữ niệm của Khởi tín luận. Chữ ấy tôi đã nói ngài Huyền tráng dịch là phân biệt, và phân biệt có thể hiểu là khái niệm là vì khái niệm là pháp. Từ điển bình thường thì khái niệm là tổng hợp sự tương đồng của quan niệm. Pháp là như thế mà còn hơn thế nữa. Gọi là 1 pháp có nghĩa là 1 cái biết: biết đây là cây bút, lại biết đây là cây bút tốt, đây là cây bút cũ, v/v - chỉ nơi 1 cây bút mà đã có bao nhiêu là biết. Mỗi cái biết như vậy là 1 pháp, thực chất không đơn thuần mà là 1 khái niệm: biểu thị sự tổng hợp không những mọi dữ kiện mà còn mọi đối chiếu và nhất là mọi kinh nghiệm.

Nhưng xét chữ niệm của Khởi tín luận nói, có khi nói là động, thì biết không những niệm là phân biệt mà là, nói cho cùng, hễ tâm động thì là niệm đó. Do vậy, biết tâm bất động là biết tâm ly niệm, tập ly niệm thì đương xứ giải thoát, nơi sinh diệt mà nhập chân như.

Trong hạ thủ công phu, sự ly niệm có thể bắt đầu bằng sự vô tâm của ngài Huệ năng: không thị phi bỉ thử gì hết; bằng sự niệm Phật: nhất tâm với 1 hồng danh mà thôi; bằng sự tham cứu công án của Thiền tông: tỉnh như mèo rình chuột chứ không nghĩ gì khác; bằng sự hành trì thần chú Bát nhã: vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia; bằng sự trực tâm chánh niệm chân như của luận này.

Sửa Chữa Những Ngộ Nhận Liên Quan Nhân Ngã

Chính Văn.-

Sửa chữa nhận thức sai lầm về Tâm là phải biết mọi nhận thức sai lầm đều do khái niệm về ngã; tách rời khái niệm về ngã thì không còn nhận thức nào bị sai lầm nữa. Khái niệm về ngã có hai, một là nhân ngã, hai là pháp ngã (126) .

Nhân ngã là của người thường, có năm sự.

Một là nghe khế kinh nói pháp thân Như lai tuyệt đối vắng bặt, tựa như hư không. Không biết lời này chỉ để đả phá cố chấp, nên ngộ nhận sự trống không là thực chất của đức Như lai. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ sự trống không là giả, không thật. Không là đối với vật mà có, mà thấy, và nhận thức phân biệt rằng đó là không. Như vậy thì vật cũng do nhận thức phân biệt, không phải độc lập ngoài nhận thức. Vật đã không thì không cũng không. Thế nên mọi đối tượng của nhận thức chỉ do nhận thức hình thành, rời nhận thức thì mọi đối tượng đều không, chỉ còn tâm thể chân như phổ biến tất cả: đó là cái nghĩa tuyệt đối của tuệ giác Như lai (127) , chứ không phải trống không như hư không.

Hai là nghe khế kinh nói vũ trụ vạn hữu hoàn toàn là không, đến nỗi niết bàn với chân như cũng hoàn toàn là không, thực chất tự không, không có dưới mọi dạng thức (128) . Không biết lời này chỉ để đả phá cố chấp, nên ngôể nhận niết bàn chân như thực chất cũng không. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ cái nghĩa Có một cách đúng như sự thật của chân như, rằng chân như sung mãn vô lượng tánh đức.

Ba là nghe khế kinh nói Như lai tạng sung mãn hết thảy tánh đức, không hề thêm bớt. Không lý giải lời này nên ngộ nhận Như lai tạng có những đặc tính dị biệt của vật với tâm. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ khế kinh nói như vậy là căn cứ mặt chân như, còn những đặc tính dị biệt chỉ là nói theo mặt sinh diệt.

Bốn là nghe khế kinh nói toàn bộ nhiễm pháp đều do Như lai tạng mà có, hết thảy nhiễm pháp tịnh pháp không ngoài chân như. Không lý giải lời này nên ngộ nhận Như lai tạng bản thân sung mãn toàn bộ nhiễm pháp. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ Như lai tạng vô thỉ đến giờ chỉ có nhiều hơn hằng sa những tánh đức trong sáng, những tánh đức không độc lậpđối lập với chân như, và do vậy mà không bao giờ mất hẳn; còn những phiền não ô nhiễm nhiều hơn hằng sa thì chỉ có một cách thác loạn, thực chất tự không, vô thỉ đến giờ không hề thích hợp với Như lai tạng. Như lai tạng nếu bản thânnhiễm pháp mà làm cho nhiễm pháp hủy diệt để hội nhập với Nó thì vô lý.

Năm là nghe khế kinh nói do Như lai tạng mà có sinh tử, do Như lai tạng mà được niết bàn. Không lý giải lời này nên ngộ nhận rằng thế là chúng sinh hữu thỉ, chúng sinh hữu thỉ thì Như lai niết bàn, niết bàn ấy cũng hữu chung, và Như lai sẽ trở lại làm chúng sinh. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ Như lai tạng là vô thỉ, bất giác do đó cũng vô thỉ (nói ngoài chúng sinh có một kẻ cũng mới có và có trước, thì đó là kinh sách ngoại đạo nói) (129) ; Như lai tạng cũng vô chung, niết bàn của Như lai thích ứng với Như lai tạng nên cũng vô chung.

Lược Giải.-

Coi lược giải đoạn dưới đây.

Sửa Chữa Những Ngộ Nhận Liên Quan Pháp Ngã

Chính Văn.-

Pháp ngã là của nhị thừa. Vì trình độ kém cỏi của họ mà đức Như lai chỉ nói cho họ đạo lý nhân vô ngã. Ngài dạy chưa trọn vẹn, nên nhị thừa thấy có năm hợp thể, thấy có sự phát sinh và có sự hủy diệt của năm hợp thể ấy. Thấy có như vậy nên nhị thừa sợ sự sống chết mà thích sự niết bàn. Sửa chữa cách nào? Hãy nói rõ năm hợp thể đương sinh bất sinh, đương diệt bất diệt (130) , bản lai niết bàn (131) .

Lược Giải.-

Cả 2 đoạn, e1 ở trên và e2 ở đây, nêu lên lắm vấn đề, không những giữa Phật giáo với ngoại đạo mà còn giữa Phật giáo với Phật giáo. Hãy cứu xét ky? ở đây và ở những nơi liên quan khác. Bởi vì nếu không thì nói ngũ uẩn vô ngã mà có thể là nói duy vật, nói niết bàn mà có thể là nói đoạn kiến, nói vô thỉ vô chung mà có thể là nói Phạn thiên với Thần ngã.

Sửa Chữa Triệt Để Mọi Sự Ngộ Nhận

Chính Văn.-

Sửa chữa triệt để mọi sự nhận thức sai lầm về Tâm là hãy nhận thức nhiễm pháp với tịnh pháp toàn là đối chiếu với nhau mà hình thành, không có đặc tính biệt lập gì có thể chỉ ra. Thế nên các pháp bản lai phi vật lý, phi tâm lý, phi tuệ giác, phi nhận thức, phi khẳng định, phi phủ định, chung cục không thể diễn tả. Diễn tả là do sự khéo léo của đức Như lai mượn ngôn ngữ để hướng dẫn chúng sinh. Ý hướng của ngài là làm cho chúng sinh vượt khỏi phân biệt, qui về chân như. Bởi vì chính phân biệt làm cho phân biệt mà không hội nhập tuệ giác chính xác.

Nói Tổng Quát Về Sự Phát Tâm

Chính Văn.-

Phân tích sắc thái phát huy về Tâm thì Tâm là cái mà tuệ giác của các đức Phật đà đã chứng ngộ, và tuệ giác ấy hết thảy các vị Bồ tát phát tâm (132) mà đi mau đến. Nói đại khái thì phát tâm có ba: một là phát tâm bằng sự tin (133) , hai là phát tâm bằng sự biết và sự làm, ba là phát tâm bằng sự chứng (134) .

Lược Giải.-

Nói tổng quát về sự phát tâm như chính văn trên đây cũng đủ thấy chữ phát tâm đồng nghĩa với chữ tu hành mà còn hơn nữa: phát tâm là cơ sở, mục đích, tiến trình và cứu cánh của sự tu hành ấy.

Nói Tư CáchLý Do Phát Tâm 
Của Người Được Đứng Vào Chánh Định Tụ

Chính Văn.-

Phát tâm bằng sự tin là do người nào, tu việc gì, để được sự tin hoàn hảophát tâm được? Là do những người thuộc bất định tụ (135) . Những người này nhờ sức mạnh của sự huân tập thiện căn (136) mà tin nghiệp và hậu quả của nghiệp (137) , tu mười điều thiện, chán thống khổ sinh tử, cầu tuệ giác vô thượng. Do vậy mà được gặp các đức Phật đà, đích thân phụng sự hiến cúng, và tu hành sự tin. Qua mười ngàn thời kỳ (138) thì sự tin hoàn hảo, nên các đức Phật đà hay các vị Bồ tát dạy cho phát tâm, hoặc vì lòng đại bi thương xót chúng sinh mà tự phát tâm, hoặc vì duy trì Phật pháp sắp mất mà tự phát tâm. Những người do sự tin hoàn hảophát tâm như vậy thì được đứng vào chánh định tụ (135) , tuyệt đối không còn thoái lui, và được gọi là người ở trong dòng giống Như lai, thích ứng với nhân tố chính yếu.

Lược Giải.-

Đây là nói về tư cáchlý do phát tâm của người được vào chánh định tụ. Trọn phần nói phát tâm bằng sự tin này (và tiếp theo là bằng sự hiểu và làm, bằng sự chứng) là nói cho những người này.

Nói Tư CáchLý Do Phát Tâm Của Người 
Chưa Đứng Vào Chánh Định Tụ

Chính Văn.-

Có những người thiện căn kém cỏi, phiền não lâu ngày sâu dày, thì dẫu được gặp Phật và được hiến cúng, nhưng gây hạt giống nhân thiên (139) , hay gây hạt giống nhị thừa, có cầu đại thừa đi nữa thì trình độ cũng không cố định, hoặc tiến tới hoặc thoái lui. Hoặc có những người cũng được gặp Phật và được hiến cúng, nhưng chưa qua mười ngàn thời kỳ, trong thì gian ấy gặp duyên tố thì cũng phát tâm, như thấy sắc tướng của Phật mà phát tâm, như hiến cúng Tăng mà phát tâm, như các vị nhị thừa dạy cho (140) mà phát tâm, như học tập người khác mà phát tâm, đại loại như vậy, những sự phát tâm này đều không cố định, gặp phải nhân tố hay duyên tố bất thiện (141) thì có người thoái chuyển, sa vào địa hạt nhị thừa.

Lược Giải.-

Đây là nói về tư cáchlý do phát tâm của người chưa đứng vào chánh định tụ. Sau đây, trọn c4 phần cách tu là nói cho những người này.

Nói 3 Tâm Được Phát (Và 4 Phương Tiện Được Tu)

Chính Văn.-

Phát tâm bằng sự tin hoàn hảo là phát những tâm gì? Ước lược mà nói thì có ba. Một là tâm ngay thẳng (142) , là chính xác nhớ thẳng tâm thể chân như. Hai là tâm sâu xa, là thích thú tập hợp mọi thiện hạnh. Ba là tâm đại bi, là muốn cứu vớt thống khổ cho chúng sinh.

Hỏi, trên kia đã nói, chân nhưpháp tánh đồng nhất, là thật thể bất nhị, như vậy tại sao không chỉ nghĩ nhớ chân như mà còn cần phải tu học thiện hạnh? Đáp, khối ngọc đại ma ni thể chất trong suốt mà có quặng làm bẩn, chỉ nghĩ đến thể chất của ngọc ấy mà không tìm cách mài dũa thì không bao giờ trong suốt. Chân như cũng vậy, thực thể trong sáng nhưng có vô số phiền não làm bẩn, nếu chỉ nhớ chân như mà không tu phương tiện thì chân như ấy không thể trong sáng. Phiền não làm bẩn tất cả các pháp thì phải tu tất cả thiện hạnhđối trị. Tu thiện hạnh là quay lại thuận theo chân như.

Phương tiện nói trên ước lược có bốn. Một là phương tiện căn bản, là quán sát các pháp đương sinh bất sinh, nên siêu thoát nhận thức thác loạn chứ không trú ở (143) sinh tử; quán sát các pháp hội đủ yếu tố thì nghiệp và hậu quả của nghiệp không mất, nên sinh tâm đại bi mà làm mọi phước đức để hóa độ chúng sinh chứ không trú ở (143) niết bàn. Tu phương tiện này là vì thuận theo sự không trú ở đâu cả của chân như. Hai là phương tiện đình chỉ, là hổ thẹnsám hối tội lỗi, đình chỉ việc ác không cho lớn thêm. Tu phương tiện này là vì thuận theo sự tách rời tội ác của chân như. Ba là phương tiện phát sinh và nuôi lớn thiện căn, là tinh tiến hiến cúng và lễ bái Phật pháp tăng, tán dương, tùy hỷkhuyến thỉnh Phật đà. Do cái tâm kính mến Tam bảo thuần hậu như vậy mà sự tin lớn thêm, chí cầu tuệ giác vô thượng, lại nhờ Phật pháp tăng lực hộ trì cho mà nghiệp chướng tiêu diệt, thiện căn phát triển. Tu phương tiện này là vì thuận theo sự thoát ly si mê chướng ngại của chân như. Bốn là phương tiện đại nguyện bình đẳng, là nguyện cùng tận vị lai hóa độ chúng sinh, không để thiếu sót, làm cho ai cũng rốt cuộc thực hiện niết bàn hoàn toàn (144) . Tu phương tiện này là vì thuận theo sự không gián đoạn của chân như, sự phổ biến chúng sinh, sự bất phân bỉ thử (145) và sự vắng lặng tuyệt đối (146) của chân như.

Lược Giải.-

Lối trình bày những phương tiện (thiện hạnh) như ở đây tức là thuận tánh khởi tu. Hãy chú ý những phương tiện này. Vì như phương tiện một là đủ cả chân quán tục quán, phương tiện ba là làm 10 đại nguyện vương đó.

Riêng ví dụ chỉ nghĩ chất ngọc mà không lo mài ngọc là thuốc đắng dành cho những người cho rằng chỉ nghĩ chân như là cao nhất rồi.

Nói Thành Quả Của Sự Phát Tâm Ấy

Chính Văn.-

Các vị Bồ tát phát tâm bằng sự tin hoàn hảo như vậy thì thấy được ít phần của pháp thân; vì thấy được pháp thân nên các vị ấy đã có thể tùy sức mạnh của đại nguyện mà biểu hiện trong thế giới loài người bằng tám hình thức để lợi ích chúng sinh, đó là giáng thần, vào thai, ở thai, ra thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập niết bàn (147) . Nhưng các vị Bồ tát này vẫn chưa được gọi là hội nhập pháp thân, vì các vị ấy chưa loại hết những hành vi sai sót (148) có trong nhiều đời đã qua, nên sinh ra ở đâu cũng còn có cái khổ nhỏ nhiệm - dầu vậy, các vị ấy có sức mạnh tự tại của đại nguyện nên không phải là kẻ bị nghiệp ràng buộc. Trong kinh có chỗ nói các vị ấy còn bị thoái lui và sa vào nẻo đường dữ, nhưng thật ra các vị ấy không còn thoái lui; trong kinh nói như vậy là để cảnh cáo những vị Bồ tát mới tu học, chưa vào chánh định tụ mà lại biếng nhác, cho họ dũng mãnh hơn lên. Thêm nữa, các vị ấy một khi phát tâm rồi thì hết hẳn khiếp nhược, hoàn toàn không còn e sợ sa vào các nẻo đường dữ (149) ; các vị ấy cũng không còn e sợ gì khi nghe nói phải trải qua vô số thời kỳ vô số (150) , siêng khó làm những việc khó làm mới được niết bàn, vì các vị ấy tin tưởng và xác quyết rằng các pháp bản lai vốn tự niết bàn.

Lược Giải.-

Bồ tát phát tâm bằng sự tin hoàn hảo thì có 4 thành quả, tả bằng 4 đoạn trong chính văn: biểu hiện 8 hình thức, ở đâu cũng tự tại, không còn bị thoái chuyển, không còn khiếp sợ gì.

Nói Sự Phát Tâm Bằng Sự Biết Và Sự Làm

Chính Văn.-

Phát tâm bằng sự biết và sự làm thì phải biết là hơn nữa. Bởi vì từ khi đạt được sự tin hoàn hảo sắp đi, cho đến lúc thời kỳ vô số thứ nhất sắp đầy đủ (151) , các vị Bồ tát này đối với chân như đã có sự hiểu sâu xa và sự làm ly tướng: các vị biết chân như là không tham lẫn nên thuận theo mà làm thí độ, biết chân như là không ô nhiễm nên thuận theo mà làm giới độ, biết chân như là không tức giận nên thuận theo mà làm nhẫn độ, biết chân như là không biếng nhác nên thuận theo mà làm tiến độ, biết chân như là không rối loạn nên thuận theo mà làm định độ, biết chân như là không bất giác nên thuận theo mà làm trí độ (152) .

Lược Giải.-

Biết và làm ở đây là thuận tánh khởi dụng.

Nói Sự Phát Tâm Bằng Sự Chứng 
(Và Hoạt Dụng Của Sự Phát Tâm Ấy)

Chính Văn.-

Phát tâm bằng sự chứng là các vị Bồ tát từ địa vị tuệ giác trong sáng đến địa vị cùng tận địa vị (153) . Các vị này chứng đối cảnh gì? Chứng chân như. Nhưng nói đối cảnh là nói như chuyển thức cho dễ hiểu (154) , chứ sự chứng ở đây không có cái gọi là đối cảnh. Ở đây là tuệ giác chân như, gọi là pháp thân (155) .

Các vị Bồ tát này có thể trong một khoảnh khắc mau như một ý nghĩ thoạt hiện hay thoạt biến, đến các quốc độ, hiến cúng các đức Phật đà, thỉnh cầu các ngài chuyển đẩy bánh xe Phật pháp - thỉnh cầu như vậy là để mở mắt dẫn đường cho chúng sinh, chứ không phải cần đến ngôn ngữ văn tự (156) . Các vị Bồ tát này có khi vì những kẻ khiếp sợ hèn nhát nên biểu hiện vượt mọi địa vị mà thành liền một đấng Chánh giác, có khi vì những kẻ biếng nhác khinh thường nên biểu hiện trải qua vô số thời kỳ vô số mới thành một bậc Toàn giác. Các vị biểu hiện vô số phương cách như vậy, ngoài tầm nghĩ bàn. Nhưng thực ra các vị Bồ tát thì chủng tánhthiện căn đồng đẳng nên phát tâm cũng đồng đẳng, chứng ngộ cũng đồng đẳng, không có cái sự vượt mọi địa vị, chỉ có cái sự vị nào cũng trải qua ba thời kỳ vô số (157) . Chỉ vì tùy theo thế giới bất đồng của chúng sinh, tùy theo chúng sinh trong các thế giới ấy quan năng, trình độ, khuynh hướng và cá tính khác nhau, nên các vị Bồ tát này biểu hiện việc làm cũng khác nhau.

Lược Giải.-

Coi lược giải của đoạn dưới đoạn này.

Nói Sự Hoàn Tất Của Sự Phát Tâm 
Bằng Sự Chứng (Tức Là Sự Phát Huy Tâm Hoàn Toàn)

Chính Văn.-

Sắc thái phát tâm bằng sự chứng của các vị Bồ tát này có ba thứ rất tinh tế. Một là tâm chân thật, là siêu việt sự phân biệt. Hai là tâm phương tiện, là nhiệm vận khắp làm lợi ích cho chúng sinh. Ba là tâm động thức, là còn sự sinh diệt nhỏ nhiệm.

Các vị Bồ tát này khi công đức viên thành thì, tại Sắc cứu cánh thiên, biểu hiện cái thân cao cả nhất thế gian (158) , với tuệ giác thích ứng tối hậu với chân như nên hết sạch bất giác, thực hiện tuệ giác Biết tất cả, nhiệm vận có đủ hoạt dụng siêu việt, biểu hiện khắp cả mà lợi ích chúng sinh.

Hỏi, không gian vô biên nên thế giới vô biên, thế giới vô biên nên chúng sinh vô biên, chúng sinh vô biên nên tâm thức vô biên. Đối cảnh như vậy không có giới hạn, khó mà hiểu biết. Nếu bất giác bị hủy diệt thì không còn tâm thức, làm sao hiểu biết được mà gọi là tuệ giác Biết tất cả? Đáp, tất cả đối cảnh vốn là tâm thể phổ biến, siêu việt phân biệt. Chúng sinhnhận thức không chính xác mà hình thành đối cảnh, nên nhận thức của chúng sinhphân biệt, cục bộ, với những khái niệm nổi lên càng không chính xác, không xứng đáng với thực thể các pháp nên không thể biết rõ tất cả. Phật đà siêu việt cái nhận thức như vậy, tuệ giác xác thực của các ngài chính là tâm thể phổ biến, nên chứng ngộ bản tính đồng nhất của các pháp và soi rõ đặc tính dị biệt của các pháp (159) . Tuệ giác như vậy có cái hoạt dụng vĩ đại (160) , đó là vô số phương cách, tùy chúng sinh cần thiết thế nào mới được lý giải thì chỉ dạy được cả mọi loại pháp nghĩa. Tuệ giác ấy được gọi là Biết tất cả (161) .

Lại hỏi nữa, Phật đà nếu có hoạt dụng nhiệm vận (163) , biểu hiện khắp cả mà lợi ích chúng sinh, thì lẽ đáng chúng sinh thấy được thân hình của ngài, nhìn được biến hóa của ngài, nghe được lời tiếng của ngài, và ai cũng được lợi ích cả, tại sao chúng sinh phần nhiều không ai thấy nghe gì hết? Đáp, pháp thân của Phật đàbình đẳng, phổ biến, không cần tác ý (162) , nên nói là nhiệm vận (163) . Nhưng sự biểu hiện của pháp thân ấy là do tâm thức của chúng sinh. Tâm thức chúng sinh như gương: gương mà bẩn thì bóng không hiện -- pháp thân Phật đà không hiện là vì tâm thức chúng sinh còn bẩn.

Lược Giải.-

Chứng phát tâm là xứng tánh diệu dụng.

Nói Tư Cách Người Tu Sự Tin

Chính Văn.-

Nói phần giải thích rồi, bây giờ nói phần cách tu (164) . Phần này nói sự tin và sự tu cho những người chưa đứng vào chánh định tụ (165) .

Lược Giải.-

Cách tu để có sự tin hoàn hảo mà được dành 1 phần để nói đến, cho thấy tính cách căn bản và quan trọng của sự tin và cách tu sự tin ấy.

Nói Tổng Quát Về Sự Tin, 
Và Sự Tu Của Sự Tin Ấy, Mà Người Ấy Phải Tu

Chính Văn.-

Những người này phải tin những gì và tu những gì? Tóm tắt mà nói thì sự tin ấy có bốn và sự tu ấy có năm (để làm thành sự tin ấy).

Bốn sự tin thì một là tin căn bản, là thích thú nghĩ nhớ tâm thể chân như. Hai là tin Phật, rằng ngài có công đức siêu việt (166) , nên mình luôn luôn nghĩ đến sự thân gần, hiến cúng và tôn kính để phát sinh thiện căn, mong được tuệ giác hoàn hảo của ngài (167) . Ba là tin Pháp, rằng pháp ấy có lợi ích vĩ đại, nên mình luôn luôn nghĩ đến sự làm theo các pháp ba la mật (168) . Bốn là tin Tăng, rằng các vị ấy tu hành chính xác để tự lợi lợi tha, nên mình luôn luôn thích thú thân gần Bồ tát tăng (169) để cầu học sự tu hành đúng như sự thật.

Năm sự tu (để làm thành sự tin) thì một là thí (170) , hai là giới (171) , ba là nhẫn (172) , bốn là tiến (173) , năm là chỉ và quán (174) .

Lược Giải.-

Về 4 sự tin thì vẫn là 4 bất hoại tín, nhưng thay vì thứ tư là tín giới thì ở đây thứ nhất tin căn bản chân như. Về 5 sự tu thì là bước trước của 6 độ.

Nói Về Thí

Chính Văn.-

Tu sự thí như thế nào? Nếu thấy ai đến cầu gì, thì mình có tiền của gì hãy tùy khả năngcung cấp, để tự bỏ tính tham lẫn cho mình và làm cho người ấy vui vẻ. Nếu thấy ai bị tai nạn, lo sợ và nguy khốn, thì hãy tùy khả năng của mình mà đem lại cho họ sự không sợ hãi. Nếu thấy ai đến cầu Phật pháp thì hãy tùy khả năng của mình mà khéo léo trình bày cho họ. Làm ba sự cho như vậy (175) mà không ham danh vọng, quyền lợitôn kính, không ham quả báo trong phạm vi thế gian (176) , chỉ nghĩ đến sự tự lợi lợi thahồi hướng tuệ giác vô thượng.

Lược Giải.-

Thí ở đây cũng đủ cả 3 việc, là tài thí, vô úy thípháp thí. Nhưng trong tài thí chỉ nói ngoại tài (cho cái của ở ngoài thân thể) mà chưa nói nội tài (cho cái của ở trong thân thể: cho sức lực, trí tuệ, tính mạng).

Nói Về Giới

Chính Văn.-

Tu sự giới như thế nào? Đừng sát sinh, trộm cướp và dâm dục, đừng nói hai lưỡi, nói thô ác, nói dối trá và nói thêu dệt, đừng tham lam (gồm cả ganh ghét, lừa đảo, dối trá, dua nịnh), giận dữtà kiến (177) . Nếu là người xuất gia thì vì bẻ gãy phiền não, còn phải tránh nơi náo động, ở chỗ thanh vắng; phải thực tập sự ít ham muốn, sự biết vừa đủ (178) , pháp hạnh đầu đà; lỗi nhỏ đi nữa cũng phải sợ hãi, hổ thẹn, ăn năn, đổi bỏ; phải tôn kính giới pháp của đức Như lai qui định, phải giữ gìn để tránh sự phỉ báng, ác cảm, nghĩa là đừng làm cho mọi người phát sinh tội lỗi một cách vô lối.

Lược Giải.-

Giới ở đây cũng đủ cả 3 loại là nhiếp luật nghi, nhiếp thiện pháp và nhiếp hữu tình. Nhưng người xuất gia thì căn bản của giới luật chính là thiểu dụctri túc.

Nói Về Nhẫn

Chính Văn.-

Tu sự nhẫn như thế nào? Phải ẩn nhẫn mọi sự quấy rối của kẻ khác, lòng không ấp ủ ý niệm trả đũa. Phải chịu đựng những điều sau đây: được sự vừa ý hay mất sự vừa ý, công kích trước mặt hay ca tụng trước mặt, tán dương sau lưng hay chỉ trích sau lưng, khốn khổ lo buồn hay sung sướng vui vẻ (179) .

Lược Giải.-

Chữ nhẫn, ngoài nghĩa ẩn nhẫn, nhẫn chịu, còn có nghĩa chấp nhận, nhận định, nên nhẫn còn là bước trước hay là 1 tên của trí. Do vậy, nhẫn là nhẫn người, nhẫn cảnh, nhẫn chân lý, và được mệnh danh khác nhau, nhưng rõ nhất là nại oán hại nhẫn, an thọ khổ nhẫnđế sát pháp nhẫn. Chính văn ở đây chỉ nói 2 sự nhẫn người và nhẫn cảnh.

Nói Về Tiến

Chính Văn.-

Tu sự tiến như thế nào? Đối với thiện pháp (180) lòng không biếng nhác, không thoái lui, lập chí kiên cường, lánh xa khiếp nhược. Phải nghĩ nhớ luôn, rằng quá khứ xa xôi đến giờ ta đã chịu đựng những khổ não to lớn, nơi thân thể cũng như nơi tâm trí, nhưng không ích lợi gì cả, nên ngày nay ta phải siêng năng khó nhọc mà tu hành công đức để tự lợi lợi tha, thoát ly khổ não. Thêm nữa, người nào tu hành sự tin mà vì đời trước đến giờ có lắm tội nặng, nghiệp dữ, gây ra lắm sự trở ngại -- sự quấy phá của tà ma quỉ quái (181) , sự ràng buộc của thế sự đa đoan, sự hành hạ của bịnh tật đau đớn, có lắm sự trở ngại như vậy, nên người ấy phải dũng mãnh chuyên cần, ngày đêm sáu buổi (182) đảnh lễ Phật đà, thành tâm sám hối (gồm có mọi sự khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng vô thượng bồ đề) (183) . Thường xuyên như vậy, không nghỉ, không bỏ, thì chướng ngại giải trừ, thiện căn tăng trưởng.

Lược Giải.-

Tu hànhnghịch lưu, bơi ngược dòng đời, nội một đời này bơi sao cho đến bờ bến bên kia, nên nội chướng ngoại chướng nhiều lắm, phải sám hối mà nhờ Phật lực.

Nói Lược Về Chỉ Quán

Chính Văn.-

Tu sự chỉ và sự quán như thế nào? Chỉ là đình chỉ sự phân biệt đối cảnh (184) , thuận với xa ma tha. Quán là quán sát sự tương quan chuyển biến (185) , thuận với tỳ bát xá na. Thuận như thế nào? Là hai sự ấy trước hết tu tập riêng ra, kế đó dần dần thêm lên, sau đó nhiệm vận song tu mà không còn rời nhau (186) .

Nói Chánh Định Chân Như

Chính Văn.-

Tu sự chỉ thì ở chỗ yên tĩnh, ngồi cho ngay, ý cho chính, không nghĩ đến hơi thở, không nghĩ đến thân hình, không nghĩ đến không, không nghĩ đến đất nước lửa gió, không nghĩ đến thấy nghe hay biết; mọi sự nghĩ, hễ nghĩ gì thì diệt trừ liền cái nghĩ ấy, lại diệt trừ luôn cái nghĩ diệt trừ -- Vì lẽ các pháp luôn luôn bất sinh, luôn luôn bất diệt, bản lai không có sự nghĩ. Cũng đừng tùy tâm mà nghĩ cảnh, sau đó đem tâm trừ tâm; hễ tâm nó nghĩ thì tức khắc ngưng lại, đứng yên nơi chánh niệm -- Chánh niệm là biết chỉ có tâm chứ không có cảnh, tâm ấy cũng không, không giây phút nào còn được.

Nếu từ chỗ ngồi đứng dậy, qua lại đi đứng mà làm việc gì thì lúc nào cũng tùy tiện mà tập như trên. Tập mãi sẽ thuần thục, tâm được đứng yên. Tâm đứng yên nên dần dần sắc bén, và thích ứng mà hội nhập chánh định Chân như, phiền não được dẹp thật sâu, sự tin được thêm càng lớn, mau chóng đạt đến sự không thoái chuyển. Ngoại trừ những kẻ hoài nghi, ngộ nhận, không tin, bài xích, tội nặng, nghiệp cản, tự cao, biếng nhác; những kẻ như vậy không thể hội nhập.

Do chánh định Chân như mà biết các pháp đồng nhất, thân Phật đà và thân chúng sinh đồng đẳng bất nhị, vì vậychánh định Chân như cũng có tên là chánh định Nhất hành. Lại vì chân nhưcăn bản của chánh định, nên tu tập chánh định Chân như thì dần dần phát sinh vô số chánh định.

Lược Giải.-

Khởi tín luận đề cao chân như, nên sự chỉ cũng nói về chánh định Chân như. Chánh định này trước đây đã nói là tâm ngay thẳng và tin căn bản. Ai nói tu Thiền thì học tập cho ky?chánh định này.

Nói Ma Sự Của Chánh Định Chân Như

Chính Văn.-

Có người không có sức mạnh của thiện căn nên bị sự mê hoặc quấy phá của tà ma, ngoại đạo, quỉ thần. Khi ngồi thiền như trên, chúng hiện hình thù dễ sợ, hiện nam nữ đẹp đẽ, nhưng người ngồi thiền ấy nghĩ nhớ rằng cái gì cũng do tâm mình mà có, thì những sự biến hiện ấy tan biến, không thể nào quấy phá. Có khi chúng hiện hình dáng chư thiên, hình dáng Bồ tát, hiện cả hình dáng đức Như lai nữa, tướng quí vẻ đẹp đủ cả; với những hình dáng ấy, chúng cũng nói minh chú, nói lục độ, nói bình đẳng, nói không, không sắc tướng và không ưa thích (187) , không thân thù, không nhân quả, không một cách triệt để, và đó là niết bàn chân thật. Chúng cũng làm cho người tu thiền này biết được đời trước của mình, biết việc quá khứ, biết việc vị lai, được cái biết biết tâm người khác, được tài hùng biện vô ngại, làm cho người tu thiền này ham thích danh vọngquyền lợi thế gian. Chúng cũng làm cho người tu thiền này hay giận hay mừng, tính tình bất thường; làm cho nhiều lòng thương xót, ngủ nhiều, bịnh nhiều; làm cho sinh ra biếng nhác, đột nhiên siêng năng rồi nghỉ bỏ liền, đâm ra không tin, lắm hoài nghi, lo nghĩ; làm cho bỏ cái việc siêu việt mà làm những việc tào tạp; làm cho mắc vào bao sự lôi kéo ràng buộc của thế gian. Chúng cũng làm cho người tu thiền này được những thiền định tương tự phần nào, nhưng toàn là thiền định của ngoại đạo, không phải thiền định chân thật. Có khi chúng làm cho những người ngồi thiền này ở trong thiền định một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày, được ăn uống những thứ tự có và thơm ngon, cơ thể và tâm trí đều vui đẹp, không đói không khát, làm cho những người này sinh ra đam mê; chúng cũng làm cho những người này ăn uống không chừng mực, khi nhiều khi ít, nhan sắc biến đổi.

sự thể trên đây, người tu hành phải thường dùng chánh tríquán sát, đừng để tâm thức của mình sa vào mạng lưới tà ma. Phải siêng mà chánh niệm, đừng ham đừng vướng mới thoát nổi những chướng ngại trên đây, toàn do nghiệp cũ mà có.

Lược Giải.-

Đoạn này phải được coi là bản trắc nghiệm của người tu thiền. Người tu thiền phải tự xét cho ky? coi mình có hay không có những gì được ghi trên đây.

Nói Sự Khác Nhau Giữa Tà ĐịnhChánh Định

Chính Văn.-

Phải nhận thức rằng mọi thứ thiền định của ngoại đạo toàn là bắt nguồn từ tâmngã kiến, ngã áingã mạn, vì còn ham thích danh vọng, quyền lợitôn kính của thế gian. Chân như chánh định không bám sự thấy, không ham sự được; hết ngồi thiền rồi càng không nhác, không tự đắc, bao nhiêu phiền não đã có thì dần dần kém và mỏng đi. Người thường mà không tu tập chánh định Chân như thì không có cái lẽ được nhập vào dòng giống của đức Như lai. Tu tập thiền định thế gian thì phần nhiều sinh ra đam mê, vì thiền định ấy bắt nguồn từ ngã kiến, lệ thuộc ba cõi, đồng loại ngoại đạo (188) . Do vậy, nếu tách rời sự giữ gìn của các bậc Thiện tri thức thì dễ sinh kiến thức ngoại đạo (189) .

Lược Giải.-

Tà định với chánh định khác nhau ở chỗ xuất từ cái ngã hay không, làm bớt cho đến hết nhác, đam mê, tự đắc và phiền não, hay trái lại. Người tu thiền phải lấy tiêu chuẩn này mà tự phán quyết cho nghiêm khắc.

Nói Hiệu Quả Của Chánh Định Chân Như

Chính Văn.-

Thêm nữa, nhất tâmtu tập chánh định Chân như một cách siêng năng tinh chuyên thì hiện tại sẽ được mười sự lợi ích. Một là được sự giữ gìn (190) của các đức Phật đà và các vị Bồ tát khắp cả mười phương. Hai là không bị mọi thứ tà ma ácquỉ làm cho khiếp sợ. Ba là không bị chín mươi lăm loại ngoại đạo (191) mê hoặc quấy phá. Bốn là xa rời sự phỉ báng chánh pháp sâu xa, tội nặng nghiệp chướng dần dần kém mỏng. Năm là loại được những sự hoài nghi, những ý nghĩ xấu. Sáu là đối với lĩnh vực của đức Như lai lòng tin được lớn thêm lên. Bảy là xa rời mọi sự lo buồn đau khổ, ở trong lĩnh vực sống chếtdũng mãnh chứ không khiếp sợ. Tám là tâm tính hòa nhã, xả bỏ kiêu ngạo, không bị người khác làm cho bực tức. Chín là lúc không ngồi thiền (192) mà, ở đâu và bao giờ, cũng bớt phiền não, cũng không đam mê thế sự. Mười là lúc ngồi thiền (192) thì không bị mọi thứ âm thanhngoại duyên làm cho kinh động.

Lược Giải.-

Những hiệu quả nào ở ngoài hay trái với những hiệu quả này, nhất là trái với những hiệu quả 4, 5 và 9, thì người tu thiền phải biết đó là tà ma.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29866)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27125)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21746)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22216)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23595)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20390)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20035)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21922)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24718)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18954)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24696)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30946)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23955)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27747)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26492)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21280)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23196)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38085)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18418)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19922)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19012)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23124)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23860)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22772)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22888)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29552)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20616)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18683)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15824)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19632)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20134)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19925)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18100)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22896)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16404)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39179)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26020)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18808)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29084)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30914)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26831)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20651)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26228)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19808)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24633)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29974)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20197)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20388)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15129)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15816)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23844)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant