Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7 Tu Hành Tín Tâm

09 Tháng Bảy 201000:00(Xem: 6413)
Chương 7 Tu Hành Tín Tâm

ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN
Bồ Tát Mã Minh
Chân Đế dịch ra Hán Văn - Cao Hữu Đính dịch ra Việt văn 

Chương 7

Tu Hành Tín Tâm

Đã nói xong phần giải thích, giờ đây nói phần tu hành tín tâm. Trong phần này, vì nương vào chúng sanh chưa vào nhóm Chánh Định, cho nên nói tu hành tín tâm.

Những tín tâm gì? Tu hành thế nào?

Nói ước lược thì Tín tâm có bốn món. Bốn món ấy là gì?

Một là lòng tin căn bản, tức thích niệm cái Chân Như.

Hai là tin Phật có vô lượng công đức, luôn luôn nhớ nghĩ, gần gũi, cúng dường cung kính, phát khởi căn lành, cầu mong được Nhất Thiết Trí.

Ba là tin Pháp có những lợi ích lớn, luôn luôn nhớ nghĩ tu theo các hạnh Ba la mật.

Bốn là tin Tăng tu hành chơn chánh, lợi mình lợi người, thường ưa gần gũi chúng Bồ Tát mà cầu học các hạnh tu như thật.

Tu hành có năm món thành tựu được bốn Tín Tâm ấy. Năm món là gì?

Một là môn Bố Thí.

Hai là môn Trì Giới.

Ba là môn Nhẫn Nhục.

Bốn là môn Tinh Tấn.

Năm là môn Chỉ Quán.

Thế nào là tu hành môn Bố Thí?

Nếu thấy bất cứ ai đến cầu xin, mình có tài vật gì thì tùy sức mà cho họ, để trừ bỏ lòng keo lẫn của mình mà lại khiến được kẻ kia hoan hỷ.

Nếu thấy người đang lo sợ vì bị ách nạn bức bách, thì tùy sức mình có thể cáng đáng mà ban vô úy cho họ.

Nếu có chúng sanh đến cầu học chánh pháp thì tùy theo chỗ hiểu biết của mình mà phương tiện nói cho họ nghe, không nên tham cầu danh lợi cung kính, chỉ nghĩ đến việc lợi mình lợi người, và hồi hướng công đức về quả giác ngộ.

Thế nào là tu hành môn Trì Giới?

Ấy là không giết hại, không trộm cắp, không dâm dật, không hai lưỡi, không ác miệng, không nói dối, không thêu dệt, xa lìa: tham lam ganh ghét, lường đảo gian dối, dua nịnh quanh co, giận dỗi và tà kiến. Nếu là người xuất gia thì phải chiết phục phiền não, còn cần xa lìa những nơi huyên náo, thường ở những nơi thanh vắng yên lặng mà tu tập lối sống thiểu dục tri túc và các hạnh đầu đàCho đến một lỗi nhỏ xíu, lòng cũng phải lo sợ, xấu hổ ăn năn, không được khinh thường giới cấm của Phật đã chế, phải giữ gìn đừng để bị tị hiềm chê trách, đừng để chúng sanh vọng khởi tội lỗi.

Thế nào là tu hành môn Nhẫn Nhục?

Ấy là nhịn chịu các khổ đau mà người khác gây ra cho mình, không ôm lòng thù hận.

Lại cũng nhịn chịu trước tám điều là: Được tiền, mất của, bị chưởi mắng, được tâng bốc, được khen, bị chê, sung sướng và khổ sở.

Thế nào là tu hành môn Tinh Tấn?

Ấy là đối với các việc lành, lòng không do dự lùi bước, ý chí kiêng cường, xa lìa khiếp nhược. Phải nhớ nghĩ rằng, từ quá khứ lâu xa đến giờ, mình đã luống chịu quá nhiều đau khổ, hết thân tâm này qua thân tâm khác, mà chẳng ích gì. Cho nên giờ đây phải siêng tu các công đức lợi mình lợi người, để chóng thoát khổ.

Lại nữa, nếu có ai tuy nay tu hành tín tâm, nhưng vì đời trước từng gây ra quá nhiều tội ác nghiệp chướng cho nên đời này bị tà ma ác quỷ não hại, hoặc bị công kia việc nọ của thế gian lôi cuốn buộc ràng, hoặc bị ốm đau bịnh tật bức não, hoặc bị vô số chướng ngại khác khiến phải chịu khổ đau tương tự như thế.

Vì vậy cho nên cần phải dõng mãnh siêng năng, ngày đêm sáu thời, lễ bái chư Phật, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh Chư Phật thuyết pháp, tùy hỷ công đứchồi hướng công đức về nơi quả Giác, thường xuyên như vậy, không ngưng không bỏ, thời nghiệp chướng mới tiêu trừ và căn lành mới tăng trưởng.

Thế nào là tu hành môn Chỉ Quán ?

Chỉ nghĩa là ngưng nghỉ tất cả các tướng Cảnh giới, vì tùy thuận nghĩa quán Xa-ma-tha.

Quán nghĩa là phân biệt tướng Nhân Duyên sanh diệt, vì tùy thuận nghĩa quán Tỳ-bát xá na.

Thế nào là tùy thuận?

Ấy là dựa vào cả hai nghĩadần dần tu tập, không rời bỏ nhau, cho nên cả hai cùng có mặt.

Nếu là tu Chỉ thì phải ở nơi thanh vắng, ngồi thẳng lưng, suy tư đứng đắn. Không nương hơi thở. Không nương hình sắc. Không nương hư không. Không nương đất nước lửa gió. Cho đến không nương thấy nghe hay biết. Tất cả các suy tư đều phải bị chánh niệm quét sạch. Ngay cả cái ý tưởng quét sạch cũng bị quét luôn. Vì tất cả các pháp, bản lai không có tướng, niệm niệm chẳng sanh, niệm niệm chẳng diệt. Cũng lại không được niệm cảnh giới ở ngoài tâm, rồi sau mới lấy Tâm trừ Tâm. Nếu Tâm rong ruổi lăng xăng thì phải lập tức thu về, an trú trong chánh niệm. Nói chánh niệm thì phải biết là chỉ có tâm, không có cảnh giới bên ngoài. Ngay Tâm ấy cũng lại không có tướng riêng, không thể đắc cái Tâm ấy trong từng niệm một.

Sau khi ngồi dậy, nếu có làm gì cần phải đi lại tới lui, thì bất cứ lúc nào cũng phải thường niệm phương tiệntùy thuận quán sát, tập như vậy lâu ngày đến mức thuần thục, thì tâm mình được an trú. Vì tâm được an trú cho nên dần dần trở nên mạnh mẽ sắc bén, mà tùy thuận vào được Chân Như Tam Muội, dẹp sầu phiền não, tăng trưởng tín tâm và mau thành bất thối. Chỉ trừ những kẻ vì nghiệp chướngphạm tội nặng như nghi hoặc, không tin, phỉ báng, hoặc ngã mạn và giãi đãi, thì không thể vào được.

Lại nữa, nương vào tam muội ấy thời biết được tướng nhất của pháp giới. Nghĩa là biết pháp thân của tất cả Chư Phật cùng với sanh thân của chúng sanhbình đẳng không hai. Đó gọi là Nhất Hạnh Tam Muội. Nên biết rằng Chân Như là gốc của tam muội. Ai tu hành thuận theo Chân Như thì dần dần phát sanh vô lượng tam muội.

Nếu chúng sanh nào không đủ căn lành, thì bị ác ma, ngoại đạo quỷ thần mê hoặc não loạn. Đang ngồi, bị chúng hiện hình khủng bố. Hoặc hiện hình trai xinh, gái đẹp. Phải niệm các cảnh giới ấy đều là duy tâm, thì chúng sẽ tự tiêu diệt, không bao giờ quấy phá nổi. Có khi chúng hiện hình chư thiên, chư Bồ Tát, ngay cả hình Phật nữa, với tướng tốt và vẻ đẹp đầy đủ. Có khi chúng nói Đà la ni. Có khi chúng nói Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, Thiền Định, Trí Tuệ. Có khi chúng nói Bình Đẳng, Không, Vô Tướng, Vô Nguyện, Không Oán Không Thân, Không Nhân Không Quả, Không Tịch Rốt Ráo, cho đó là Niết Bàn chân thật. Có khi chúng khiến người ta biết được những việc xảy ra trong các đời quá khứ và những việc sẽ xảy ra trong đời vị lai, có trí Tha Tâm Thông, có biện tài vô ngại, do đó làm cho chúng sanh càng thêm say đắm đường danh nẽo lợi thế gian. Lại có khi chúng khiến người ta chợt giận chợt mừng, tánh khí thất thường. Khi thì thương yêu da diết, khi thì ốm đau ngái ngủ li bì, tinh thần dã dượi. Hoặc vừa mới hăng hái xong thì liền bỏ dỡ công việc, chẳng tin gì hết, đa nghi đa lự. Hoặc bỏ ngang hạnh tu tốt đang tu mà theo các hạnh tu xằng bậy. Hoặc bị những chuyện phức tạp của thế gian lôi cuốn buộc ràng. Chúng còn có thể khiến người ta có được các loại tam muội mang máng như tam muội chân thật, nhưng đây là tam muội của ngoại đạo sở đắc. Hoặc chúng cũng có thể khiến người ta an trú ở trong định, từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày, được ăn những thức ăn thơm tho tự nhiên, làm cho thân tâm vui sướng, không thấy đói, không thấy khát, khiến phải đắm say. Hoặc làm cho người ta ăn không chừng đỗi, khi nhiều khi ít, nhan sắc thay đổi thất thường. Bởi những việc ma quái như vậy, cho nên hành giả phải thường vận dụng trí tuệquán sát, đừng để tâm mình rơi vào lưới tà. Phải siêng năng chánh niệm, không nắm bắt, cũng không để bị dính mắc, thời xa lìa được các nghiệp chướng ấy.

Nên biết, tam muội của ngoại đạo tu tập đều không lìa Tâm kiến ái và Tâm ngã mạn, vì họ tham đắm danh lợi và sự cung kính thế gian.

Còn Chân Như Tam Muội thì không trú nơi tướng Kiến, không trú nơi tướng Đắc, cho nên khi ra Định, cũng không có giãi đãi, không kiêu mạn, bao nhiêu phiền não có từ trước đều dần dần mỏng hết. Nếu các phàm phu không tu tập phép Tam Muội ấy mà được vào chủng tánh Như Lai thì đó là điều không thể có. Bởi lẽ, tu theo các phép Tam Muội của thế gian thì phần nhiều dấy khởi sa đắm hương vị trần tục, nương vào ngã kiến, bị trói buộc trong ba cõi, giống như ngoại đạo; Còn nếu rời khỏi sự hướng dẫn của thiện tri thức thời dấy khởi tà kiến cũng giống như ngoại đạo.

Lại nữa, ai siêng năng chuyên chú tu hành phép Tam Muội ấy, thì ngay trong đời này, được mười điều lợi ích. Mười điều lợi ích là gì?

Một là thường được Chư Phật Bồ Tát trong mười phương hộ niệm.

Hai là không bị ma quỷ hung dữ khủng bố.

Ba là không bị quỷ thần của chín mươi lăm ngoại đạo mê hoặc nhiễu loạn.

Bốn là xa lìa sự hủy báng giáo pháp thậm thâm, khiến tội lỗi nghiệp chướng nặng nề vơi dần thành cạn mỏng.

Năm là diệt hết mầm nghi đối với ác giác ác quán.

Sáu là đối với cảnh giới của Như lai, tăng trưởng được tín tâm.

Bảy là xa lìa lo lắnghối hận, lòng dõng mãnh không khiếp sợ đối với cảnh sanh tử.

Tám là tâm trở nên nhu nhuyễn, xả bỏ kiêu mạn, không bị người khác gây khổ não.

Chín là dù chưa được định, nhưng bất cứ lúc nào, ở trong bất cứ cảnh giới nào, cũng giảm thiểu được phiền não, không chạy theo dục lạc thế gian.

Mười là nếu đắc tam muội rồi, không bị mọi thứ âm thanh của ngoại duyên làm kinh động.

Lại nữa, nếu chỉ tu Chỉ thời Tâm bị trầm một, hoặc sanh giãi đãi, không thích làm các điều lành, xa lìa Tâm Đại Bi, cho nên phải tu Quán. Tập phép tu Quán là: 

Phải quán tất cả pháp hữu vi trong thế gian đều không tồn tại dài lâu, biến đổi hư hoại trong nháy mắt. Mọi tạo tác của Tâm đều niệm niệm sanh diệt, bởi thế nên khổ.

Phải quán các pháp sở niệm trong quá khứ, thoáng qua như giấc mộng.

Phải quán các pháp sở niệm trong hiện tại như tia điện chớp.

Phải quán các pháp sở niệm trong vị lai như bức tranh chó bỗng hiện ra trong mây.

Phải quán tất cả các thân đương hiện hữu đều là bất tịnh, chứa đầy ô uế, không một thân nào đáng ưa thích.

Như vậy, nên nghĩ tất cả chúng sanh, từ vô thủy đến giờ, đều vì bị Vô Minh huân tập cho nên khiến tâm sanh diệt, từng chịu biết bao đau khổ ê chề, cả thân lẫn tâm. Hiện tại thì bị vô lượng khổ đau bức bách. Cái khổ của vị lai cũng không có giới hạn. Thật là khó bỏ khó dứt, mà chẳng biết chẳng hay. Chúng sanh như vậy đó, rất đáng thương xót!

Tư duy như vậy rồi thì phải liền dõng mãnh lập Đại Thệ Nguyện. Nguyện sao cho tâm ta xa lìa phân biệt, tỏa khắp mười phươngtu hành tất cả các công đức lành, cho đến tận cùng đời vị lai, dùng vô số phương tiện, cứu vớt tất cả chúng sanh đau khổ, khiến cho họ được hưởng cái vui tuyệt đối của Niết Bàn. Nhờ khởi được các nguyện như vậy, cho nên bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, hễ có các việc lànhtùy theo khả năng của mình mà gánh vác, không bỏ sự tu học, Tâm không trễ nãi biếng nhác.

Chỉ trừ khi ngồi thì chuyên niệm tu Chỉ. Còn những khi khác thì phải quán sát cái chi nên làm và cái chi không nên làm. Dù đi, dù đứng, dù nằm, dù dậy, đều nên song tu cả Chỉ lẫn Quán. Nghĩa là: Tuy niệm các pháp, tự tánh không sanh, nhưng cũng tức là niệm nhân duyên hòa hợp, trong đó các nghiệp lành dữ, các báo khổ vui không mất không hư; Tuy niệm nhân duyên với nghiệp báo lành dữ, nhưng cũng tức là niệm tánh của chúng không thể đắc.

Nếu là tu Chỉ thì như khi đối trị Tâm tham đắm thế gian của phàm phu, khiến xả bỏ được kiến chấp khiếp nhược của Nhị Thừa.

Nếu là tu Quán thì như khi đối trị Tâm lượng hẹp hòi của Nhị Thừa, không phát Tâm Đại Bi, khiến xa lìa được lỗi lầm không chịu tu căn lành của phàm phu.

Chính bởi nghĩa ấy, cho nên môn tu Chỉ Quán này giúp nhau thành tựu, không rời bỏ nhau. Nếu Chỉ và Quán không đủ, thời không thể nào vào được đạo Bồ Đề.

Lại nữa, chúng sanh mới học pháp này, muốn cầu Chánh Tín, nhưng vì tâm mình còn quá khiếp nhược, sợ rằng ở cõi Ta Bà này, không được thường gặp Chư Phật để đích thân cúng dường, tín tâm e sợ khó thể thành tựu, ý muốn thối lui, thì hãy nên biết rằng Như Laiphương tiện tốt giúp họ thâu nhiếp tín tâm. Đó là dùng nhân duyên chuyên tâm niệm Phật, theo nguyện mà được sanh về cõi Phật ở một phương khác, thường được thấy Phật, dứt khoác xa lìa đường dữ.

Như trong kinh nói, nếu ai chuyên niệm Đức Phật A Di Đàthế giới Cực Lạc phương Tây, đem các căn lành do mình tu được mà hồi hướng nguyện cầu sanh về thế giới ấy, thì liền được vãng sanh. Bởi lẽ thường được thấy Phật, cho nên không bao giờ còn bị thối lui. Nếu ai quán Pháp Thân Chân Như của Đức Phật ấy và thường siêng năng tu tập, thì cuối cùng sẽ được sanh về, vì đã trú trong Chánh Định rồi.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 188843)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi tam-bảo
(Xem: 43881)
Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều.
(Xem: 25103)
Con đường của Đức Phật không phải chỉ có chánh niệm, các pháp hành thiền Chỉthiền Quán, nhưng bao gồm các Giới đức, bắt đầu bằng năm giới căn bản.
(Xem: 30824)
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu kiến ngã uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc..."
(Xem: 21050)
Từ trước đến nay, nhiều người đã giảng rộng về Kinh Đại Bi Tâm Đà La Ni, nhưng chưa có vị nào giảng giải về chú Đại Bi. Thực vậy, rất khó giảng giải về chú Đại Bi.
(Xem: 38774)
Phật giáo được sáng lập trên cơ sự tự giác của đức Thích Ca, tuy có chỗ siêu việt các tư tưởng nhất ban, nhưng cũng có nhiều điểm thừa thụ nền tư tưởng cố hữu của Ấn Độ mà phát đạt...
(Xem: 27397)
Thắng Man Phu nhân điển hình cho phụ nữ thực hành Bồ tát đạo bằng cung cách trang nhã, từ ái, khiêm cung. Môi trường thực hành bao gồm từ giới hạn thân thuộc...
(Xem: 31109)
Kinh Pháp Cú (Kinh Lời Vàng), The Path of Truth - Việt dịch: Hòa Thượng Thích Minh Châu - Họa sĩ: Mr. P. Wickramanayaka (vẽ theo bản tiếng Anh mà HT Thích Minh Châu dịch) - Vi tính: Tâm Tịnh
(Xem: 33127)
Tích truyện Pháp Cú - Thiền viện Viên Chiếu - Nguyên tác: "Buddhist Legends", Eugène Watson Burlingame
(Xem: 23987)
Sau 45 năm thuyết pháp, những lời giảng daỵ của Đức Phật không những không bị quên lãng, thất lạc mà còn được lưu giữ, truyền bá mãi đến ngày nay...
(Xem: 16981)
Người học luật mà không hành trì, khó mà hiểu hết những điều được học có nghĩa lý gì. Trì luật, không phải chỉ sống thanh bạch một mình trên núi rừng với nai với khỉ...
(Xem: 20522)
Sự tập thành của Hoa nghiêm (Gaṇḍavyūha) có lẽ là do ở một cuộc biến chuyển đã thành hình trong tâm trí của Phật tử đối với cuộc sống, với cõi đời, và nhất là với đức Phật.
(Xem: 31927)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp...
(Xem: 18102)
Mục tiêu của đạo đứchạnh phúc, hay nói cách khác, muốn sống có hạnh phúc thì phải sống có đạo đức. Đạo đức phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn phù hợp...
(Xem: 20570)
Mặc dầu hư vọng phân biệt là một khái niệm liên quan mật thiết với đối cảnh sở duyên của chỉ quán, nhưng thực ra, hư vọng phân biệt là thức và thức là duyên sinh...
(Xem: 27042)
Đời nhà Đường, ngài Tam Tạng pháp sư tên là Huyền Trang tạo ra bài luận này. Ngài Huyền Trang sau khi dịch kinh luận về Duy Thức tôn, lại tạo ra Duy Thức luận...
(Xem: 18065)
Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo.
(Xem: 25593)
Ta Bà là chốn tạm ở thôi Cửa không mau phải hồi đầu lại Hai sáu nguyện vương tiêu tai chướng Ba ngàn hoá Phật chứng lòng thành
(Xem: 26661)
Cuộc đối thoại đầy đạo vị hứng thú dĩ nhiên được truyền tụng khắp nơi trong giới Phật giáo cũng như ngoài nhân gian. Về sau, vào thế kỷ đầu sau Tây lịch, sợ để khẩu truyền lâu ngày
(Xem: 36618)
Ở phương Ðông cách đây hơn mười căn dà sa cõi Phậtmột thế giới tên là Tịnh Lưu Ly. Ðức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai
(Xem: 28073)
Kinh Thập Thiện tuy ngắn gọn, nhưng rất thiết yếu đối với người tu tại gia cũng như người xuất gia. Cư sĩ tại gia khi thọ Tam qui và nguyện giữ Ngũ giới
(Xem: 27314)
Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc, Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh, Kiều-trần-như được duyên lành, Năm anh em họ viên thành lý chân,
(Xem: 30354)
Phật Thùy Ban Niết Bàn Lược Thuyết Giáo Giới Kinh (Kinh Di Giáo) - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; HT. Thích Trí Quang dịch Việt
(Xem: 37135)
Đạo Phật là đạo giác ngộ, toàn bộ giáo lý của Phật dạy đều nhằm đánh thức con người sớm được giác ngộ. Mê lầm là cội nguồn đau khổ, chỉ có giác ngộ mới cứu được mọi khổ đau của chúng sanh.
(Xem: 37276)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 23881)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Kỳ Thọ Cấp Cô Độc gần thành Xá Vệ, với đại chúng khất sĩ gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị. Hôm ấy vào giờ khất thực, Bụt mặc áo và ôm bát đi vào thành Xá Vệ.
(Xem: 32297)
Nhóm 1: 8 pháp Ba la di Nhóm 2: 17 pháp Tăng tàn Nhóm 3: 30 pháp Xả đọa Nhóm 4: 178 tám pháp Đọa Nhóm 5: 8 pháp Hối quá Nhóm 6: 100 pháp Chúng học Nhóm 7: 7 pháp Diệt tránh.
(Xem: 55167)
Hệ Bát-nhã là một bộ phận trọng yếu trong Tam tạng Thánh giáo, cánh cửa thật tướng mở toang từ đó, chân trời Tánh Không, kho tàng pháp bảo cũng toàn bày nơi đó...
(Xem: 36950)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
(Xem: 27591)
Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm Kinh - Năm trăm Danh Hiệu Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm
(Xem: 28326)
Công Phu Khuya
(Xem: 37978)
Ngày nay tai nạn binh lửa lan tràn khắp thế giới, đó là do nghiệp sát của chúng sanh chiêu cảm. Vì thế nên cổ đức đã bảo: "Tất cả chúng sanh không nghiệp sát. Lo gì thế giới động đao binh!"
(Xem: 25428)
Giới học là một trong ba học: Giới, Định, Tuệ. Ba học còn được gọi là ba vô lậu học. Gọi là vô lậu học là vì ba học này đưa đến đoạn trừ các lậu hoặc, đưa đến giải thoát...
(Xem: 24146)
Nói một cách vắn tắt, sự xuất hiện của Duy-ma-cật là xu hướng khẳng định vai trò tích cực của chúng đệ tử tại gia trong giáo pháp của Phật, về các mặt hành đạo cũng như hóa đạo.
(Xem: 11241)
Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
(Xem: 14533)
Đại Bát Niết Bàn Kinh Trực Chỉ Đề Cương - HT Thích Từ Thông biên soạn
(Xem: 10641)
Tác giả: Bồ tát Long Thọ (Nàgàrjuna) Hán dịch: Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập Việt dịch: Thích Viên Lý
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant