Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

4. Phẩm Bồ Tát

12 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 9898)
4. Phẩm Bồ Tát


Phật Lịch 2514
KINH DUY-MA-CẬT

Đời Diêu Tần, ngài Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập 
vưng chiếu dịch ra chữ Trung Hoa
Dịch giả: Thích Huệ Hưng 
Dương Lịch 1970

 

IV PHẨM BỒ TÁT (1)

BỒ TÁT DI LẶC (2)

Lúc bấy giờ Phật bảo Bồ Tát Di Lặc
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Di Lặc bạch Phật
– Bạch Thế Tôn ! Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao ? - Nhớ lại lúc trước con nói hạnh “bất thối chuyển” (3), cho vị Thiên Vươngcõi trời Ðâu Suất và quyến thuộc của người, lúc ấy ông Duy Ma Cật đến nói với con rằng : “Ngài Di Lặc ! Thế Tôn thọ ký (4) cho Ngài một đời sẽ được quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, đó là đời nào mà Ngài được thọ ký ? Ðời quá khứ chăng ? Ðời vị lai chăng ? Ðời hiện tại chăng ? Nếu là đời quá khứ thời quá khứ đã qua. Nếu là đời vị lai thời vị lai chưa đến. Nếu là đời hiện tại thời hiện tại không dừng (trụ) . Như lời Phật nói : “Này Tỳ Kheo! Như ông ngay bây giờ cũng sanh, cũng già, cũng chết !”. Nếu dùng vô sanh (5) mà được thọ ký, thì vô sanh tức là chánh vị (6), ở trong chánh vị cũng không thọ ký, cũng không được quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Thế nào Di Lặc được thọ ký một đời ư ? Là từ “Như” sanh mà được thọ ký, hay là từ “Như” diệt mà được thọ ký ? Nếu từ Như sanh mà được thọ ký, mà Như không có sanh. Nếu từ Như diệt được thọ ký, mà Như không có diệt. Tất cả chúng sanh đều Như, tất cả Pháp cũng Như, các Thánh Hiền cũng Như, cho đến Di Lặc cũng Như. Nếu Di Lặc được thọ ký, tất cả chúng sanh cũng phải được thọ ký - Vì sao ? Vì Như không hai không khác. Nếu Di Lặc được quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, tất cả chúng sanh cũng đều được. Vì sao ? - Tất cả chúng sanh chính là tướng Bồ Ðề(7). Nếu Di Lặc được diệt độ, tất cả chúng sanh cũng phải diệt độ. Vì sao ? - Chư Phật biết tất cả chúng sanh rốt ráo vắng lặng, chính là tướng Niết bàn, chẳng còn diệt nữa. Cho nên Di Lặc, chớ dùng Pháp đó dạy bảo các Thiên tử, thật không có chi phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác, cũng không có chi thối lui. Ngài Di Lặc ! Phải làm cho các vị Thiên tử này bỏ chỗ kiến chấp phân biệt Bồ Ðề. Vì sao ? Bồ Ðề không thể dùng thân được, không thể dùng tâm được. Tịch diệt là Bồ Ðề, vì diệt các tướng; chẳng nhận xét là Bồ Ðề, vì ly các duyên ; chẳng hiện hạnh là Bồ Ðề, vì không ghi nhớ; đoạn là Bồ Ðề, bỏ các kiến chấp ; ly là Bồ Ðề, lìa các vọng tưởng ; chướng là Bồ Ðề, ngăn các nguyện (8) ; bất nhập là Bồ Ðề, không tham đắm ; thuận là Bồ Ðề, thuận chơn như ; trụ là Bồ Ðề, trụ pháp tánh ; đến là Bồ Ðề, đến thật tế ; bất nhị (9) là Bồ Ðề, ly ý pháp; bình đẳng là Bồ Ðề, đồng hư không ; vô vi là Bồ Ðề, không sanh, trụ, diệt ; tri là Bồ Ðề, rõ tâm hạnh chúng sanh ; không hội là Bồ Ðề, các nhập không nhóm(10) ; không hiệp là Bồ Ðề, rời tập khí phiền não; không xứ sở là Bồ Ðề, không hình sắc ; giả danh là Bồ Ðề, danh tự vốn không; như huyễn hóa là Bồ Đề, không thủ xả ; không loạn là Bồ Ðề, thường tự vắng lặng ; thiện tịch là Bồ Ðề, tánh thanh tịnh ; không thủ là Bồ Ðề, rời phan duyên; không khác là Bồ Ðề, các Pháp đồng đẳng ; không sanh là Bồ Ðề, không thể ví dụ ; vi diệu là Bồ Ðề, các Pháp khó biết. 

– Bạch Thế Tôn ? Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy, hai trăm vị Thiên tử chứng được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. 

ÐỒNG TỬ QUẢNG NGHIÊM (11–12)

Phật bảo Ðồng tử Quang Nghiêm : 
– Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Quang Nghiêm bạch Phật
- Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao ? - Nhớ lại ngày trước con ở trong thành lớn Tỳ Da Ly vừa ra, lúc đó ông Duy Ma Cật mới vào thành, con liền chào và hỏi rằng : “Cư sĩ, từ đâu đến đây ?”. 

Ông đáp : “Tôi từ Ðạo tràng (13) đến”. 

Con hỏi : “Ðạo tràng là gì ?”. 

Ông đáp Trực tâm là Ðạo tràng, vì không hư dối ; phát hạnh là đạo tràng, làm xong các việc ; thâm tâmđạo tràng, thêm nhiều công đức ; Bồ Ðề tâm là đạo tràng, vì không sai lầm; bố thíđạo tràng, không mong phước báu; trì giớiđạo tràng, được nguyện đầy đủ ; nhẫn nhụcđạo tràng, đối chúng sanh tâm không chướng ngại ; tinh tấnđạo tràng, không biếng trễ ; thiền địnhđạo tràng, tâm điều nhu (14) ; trí tuệđạo tràng, thấy rõ các Pháp ; từ là đạo tràng, đồng với chúng sanh ; bi là đạo tràng, nhẫn chịu sự khổ nhọc ; hỉ là đạo tràng, ưa vui Chánh Pháp ; xả là đạo tràng, trừ lòng thương ghét; thần thôngđạo tràng, thành tựu Pháp lục thông; giải thoátđạo tràng, hay trái bỏ; phuơng tiện là đạo tràng, giáo hóa chúng sanh; tứ nhiếp là đạo tràng, nhiếp độ chúng sanh ; đa văn(15) là đạo tràng, đúng theo chỗ nghe mà thật hành ; phục tâm là đạo tràng, chánh quán (16) các Pháp ; ba mươi bảy phẩm trợ đạođạo tràng, bỏ Pháp hữu vi; tứ đếđạo tràng, chẳng dối lầm thế gian; duyên khởiđạo tràng, từ vô minh cho đến lão, tử đều không hết ; các phiền nãođạo tràng, biết là vô ngã; tất cả Pháp là đạo tràng, biết các Pháp trống không; hàng mađạo tràng, không lay động; tam giớiđạo tràng, không chỗ đến ; sư tử rống là đạo tràng, không sợ sệt; thập lực, vô úy, bất cộng phápđạo tràng, không các lỗi ; tam minhđạo tràng, không còn ngại ; một niệm biết tất cả Pháp là đạo tràng, thành tựu nhứt thiết chủng trí (17). Như vậy Thiện nam tử ! Nếu Bồ Tát đúng theo các Pháp ba la mậtgiáo hóa chúng sanh, thời bao nhiêu việc làm, hoặc nhứt cử nhứt động, phải biết đều là từ nơi đạo tràng mà ra, ở nơi Phật Pháp vậy”. 

Khi ông Duy Ma Cật nói Pháp ấy, năm trăm vị Thiên nhơn đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. 

BỒ TÁT TRÌ THẾ (18)

Phật bảo Bồ Tát Trì Thế : 
- Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Bồ Tát Trì Thế bạch Phật
- Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao ? - Nhớ lại lúc trước, con ở nơi tịnh thất, bấy giờ ma Ba Tuần (19) đem một muôn hai nghìn Thiên nữ giống như trời Ðế Thích, trổi nhạc đờn ca đi đến chỗ con ở, Ma cùng với quyến thuộc cúi đầu làm lễ dưới chân con, chấp tay cung kính đứng sang một bên. Trong ý con cho là trời Ðế Thích nên bảo rằng : “Lành thay, mới đến Kiều Thi Ca (20) ? Dù là có phước chớ nên buông lung. Ông nên quán ngũ dụcvô thường để cầu cội lành, ở nơi thân mạng, tài sảntu pháp bền chắc (21)”. 

Ma vương nói với con: “Thưa Chánh sĩ (22) ! Xin Ngài nhận một muôn hai nghìn Thiên nữ này để dùng hầu hạ quét tước”. Con nói rằng : “Này Kiều Thi Ca ! Ông đừng cho vật phi pháp này, tôi là kẻ Sa môn Thích tử, việc ấy không phải việc của tôi”. Nói chưa dứt lời, bỗng ông Duy Ma Cạt đến nói với con : “Ðây chẳng phải là Ðế Thich, mà là Ma đến khuấy nhiễu ông đấy !...” Ông lại bảo Ma rằng : “Các vị Thiên nữ này nên đem cho ta, như ta đây mới nên thọ”. Ma sợ hãi nghĩ rằng : “Có lẽ ông Duy Ma Cật đến khuấy rối ta chăng ?”. Ma muốn ẩn hình mà không thể ẩn, rán hết thần lực, cũng không đi được. Liền nghe giữa hư không có tiếng rằng : “Này Ba Tuần! Hãy đem Thiên nữ cho ông Duy Ma Cật thì mới đi được”. Ma vì sợ hãi, nên miễn cưỡng cho. 

Khi ấy ông Duy Ma Cật bảo các Thiên nữ rằng:
- Ma đã đem các ngươi cho ta rồi, nay các ngươi đều phải phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Rồi ông theo căn cơ của Thiên nữ mà nói pháp để cho phát ý đạo, và bảo rằng “Các ngươi đã phát ý đạo, có Pháp vui để tự vui chớ nên vui theo ngũ dục (23) nữa”. 

Thiên nữ hỏi : “Thế nào là Pháp vui ?”. 

Ðáp : “Vui thuờng tin Phật; vui muốn nghe pháp; vui cúng dường tăng; vui lìa ngũ dục; vui quán ngũ ấm như oán tặc; vui quán thân tứ đại như rắn độc; vui quán nội nhập (sáu căn) như không; vui giữ gìn đạo ý; vui lợi ích chúng sanh; vui cung kính cúng dường bực sư trưởng; vui nhẫn nhục nhu hòa; vui siêng nhóm căn lành, vui thiền định chẳng loạn; vui rời cấu nhiễm đặng trí tuệ sáng suốt; vui mở rộng tâm Bồ Ðề; vui hàng phục các Ma; vui đoạn phiền não; vui thanh tịnh cõi nuớc Phật; vui thành tựu các tướng tốt mà tu các công đức; vui trang nghiêm đạo tràng; vui nghe pháp thâm diệu mà không sợ; vui ba môn giải thoátkhông vui phi thời (24); vui gần bạn đồng học; vui ở chung với người không phải đồng học mà lòng không chướng ngại, vui giúp đỡ ác tri thức; vui gần thiện tri thức; vui tâm hoan hỷ thanh tịnh; vui tu vô lượng Pháp đạo phẩm. Ðó là Pháp vui của Bồ Tát”. 

Khi ấy ma Ba Tuần bảo các Thiên nữ rằng : “Ta muốn cũng các ngươi đồng trở về Thiên cung”. 

Các Thiên nữ đáp : “Ông đã đem chúng tôi cho cư sĩ, chúng tôipháp vui, chúng tôi vui lắm, không còn muốn vui theo ngũ dục nữa”. 

Ma liền thưa với ông Duy Ma Cật rằng : “Xin Ngài nên xả các Thiên nữ này; người đem tất cả vật của mình để bố thí cho kẻ khác, đó mới là Bồ Tát”. 
Ông Duy Ma Cật nói : “Ta đã xả rồi, ngươi hãy đem đi để cho tất cả các người được pháp nguyện đầy đủ”. 

Lúc ấy các Thiên nữ hỏi ông Duy Ma Cật rằng:
- Chúng tôi làm thế nào ở nơi cung ma?

Ông Duy Ma Cật đáp : “Này các chị, có Pháp môn tên là “Vô tận đăng”, các chị nên học. Vô tận đăngví như một ngọn đèn mồi đốt trăm ngàn ngọn đèn, chỗ tối đều sáng, sáng mãi không cùng tận. Như thế đó các chị ? Vả lại một vị Bồ Tát mở mang dẫn dắt trăm nghìn chúng sanh phát tâm Bồ Ðề, đạo tâm của mình cũng chẳng bị tiêu mất, tùy nói Pháp gì đều thêm lợi ích cho các Pháp lành, đó gọi là “Vô tận đăng”. Các chị dầu ở cung ma mà dùng Pháp môn “Vô Tận Ðăng” này làm cho vô số Thiên nữ phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng, Chánh Giác, đó là báo ơn Phật, cũng là làm lợi ích cho tất cả chúng sanh”.

Bấy giờ các Thiên nữ cúi đầu đảnh lễ dưới chân ông Duy Ma Cật rồi theo ma Ba Tuần trở về Thiên cung, bỗng nhiên biến mất không còn thấy nữa. 

- Bạch Thế Tôn ! Ông Duy Ma Cậtthần lực tự tạitrí tuệ biện tài như thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. 

TRƯỞNG GIẢ TỬ THIỆN ĐỨC

Phật bảo Trưởng giả tử Thiện Ðức : 
- Ông đi đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Thiện Ðức bạch Phật
- Bạch Thế Tôn ? Con không kham lãnh đến thăm bịnh ông. Vì sao? Nhớ lại thuở trước, con lập ra hội đại thí ở nhà cha con, hạn trong bảy ngày để cúng dường cho tất cả vị Sa môn, Bà la môn, cùng hàng ngoại đạo, kẻ nghèo khó, hèn hạ, cô độc và kẻ ăn xin. Bấy giờ ông Duy Ma Cật đến trong hội nói với con rằng : “Này Trưởng giả tử ! Vả chăng hội đại thí không phải như hội của ông lập ra đâu, phải làm hội Pháp thí(26) chớ lập ra hội đại thí này làm gì ?. 

Con nói: “Thưa Cư sĩ ! Sao gọi là hội Pháp thí”. 

Ông đáp : “Hội Pháp thíđồng thời cúng dường tất cả chúng sanh, không trước không sau đó là hội Pháp thí”. 

Con hỏi : “Thế là nghĩa gì ?”. 

Cư sĩ đáp : “Nghĩa là vì đạo Bồ Ðề, khởi từ tâm; vì cứu chúng sanh, khởi tâm đại bi ; vì muốn giữ gìn chánh pháp, khởi tâm hoan hỉ ; vì nhiếp trí tuệ, làm theo tâm xả ; vì nhiếp tâm tham lẫn, khởi bố thi ba la mật, vì độ kẻ phạm giới khởi trì giới ba la mật, vì không ngã (27) pháp (28), khởi nhẫn nhục ba la mật ; vì rời tướng thân tâm, khởi tinh tấn ba la mật; vì tướng Bồ Ðề, khởi thiền định ba la mật; vì nhứt thiết trí, khởi trí tuệ ba la mật; vì giáo hóa chúng sanh mà khởi ra “Không” ; chẳng bỏ Pháp hữu vi mà khởi “Vô tướng”; thị hiện thọ sanh mà khởi “vô tác”; hộ trì Chánh Pháp, khởi sức phương tiện; vì độ chúng sanh, khởi pháp tứ nhiếp; vì kính thờ tất cả, khởi pháp trừ khinh mạn; đối thân, mạng và tài sản, khởi ba pháp bền chắc; trong pháp lục niệm(29) khởi ra pháp nhớ tưởng; ở sáu pháp hòa kính (30) , khởi tâm chất trực; chơn chánh thật hành thiện pháp, khởi sự sống trong sạch; vì tâm thanh tịnh hoan hỷ, khởi gần bậc Thánh hiền ; vì chẳng ghét người dữ, khởi tâm điều phục; vì pháp xuất gia, khởi thâm tâm; vì đúng theo chỗ nói mà làm khởi đa văn; vì Pháp vô tránh, khởi ở chỗ yên lặng; vì đi tới Phật huệ, khởi ra ngồi yên lặng (tọa thiền); vì mở ràng buộc cho chúng sanh, khởi tâm tu hành; vì đầy đủ tướng tốt và thanh tịnh cõi Phật, khởi sự nghiệp phước đức; vì muốn biết tâm niệm tất cả chúng sanh đúng chỗ nên nói pháp, khởi ra nghiệp trí; vì biết tất cả pháp không lấy không bỏ, vào môn nhứt tướng(31), khởi ra nghiệp huệ; vì đoạn tất cả phiền não, tất cả chướng ngại, tất cả bất thiện, khởi làm tất cả pháp trợ Phật đạo. Như vậy Thiện nam tử ? Ðó là hội pháp thí. Nếu Bồ Tát trụ nơi hội pháp thí đó, là vị đại thí chủ, cũng là phước điền cho tất cả thế gian”. 

- Bạch Thế Tôn ? Khi ông Duy Ma Cật nói pháp ấy, trong chúng Bà la môn hai trăm người đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác

Lúc đó tâm con đặng thanh tinh, ngợi khen chưa từng có, cúi đầu đảnh lễ dưới chơn ông Duy Ma Cật. Con liền mở chuỗi Anh lạc giá đáng trăm nghìn lượng vàng dâng lên, ông không chịu lấy. Con nói : “Thưa Cư sĩ ! Xin Ngài hãy nạp thọ, tùy ý Ngài cho”. ông Duy Ma Cật liền lấy chuỗi Anh lạc chia làm hai phần, một phần đem cho người ăn xin hèn hạ nhứt trong hội, còn một phần đem dâng cho đức Nan Thắng Như Lai. Tất cả chúng trong hội đều thấy cõi nước Quang Minh và đức Nan Thắng Như Laỉ, lại thấy chuỗi Anh lạc ở trên đức Phật kia biến thành bốn trụ đài quí báu, bốn mặt đều trang nghiêm rực rỡ không ngăn che nhau. 

Khi ấy, ông Duy Ma Cật hiện thần biến xong, lại nói rằng: “Nếu người thí chủ dùng tâm bình đẳng thí cho một người ăn xin rất hèn hạ xem cũng như tướng phước điền của Như Lai, không phân biệt, lòng đại bi bình đẳng, không cầu quả báo, đó gọi là đầy đủ pháp thí vậy”. 

Trong thành những người ăn xin hèn hạ bực nhất thấy thần lực như vậy và nghe lời nói kia, đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Vì thế, nên con không kham lãnh đến thăm bịnh ông Duy Ma Cật

Như thế, các Bồ Tát dều tuần tự đến trước Phật trình bày chỗ bổn duyên của mình, vị nào cũng khen ngợi, thuật lại những lời ông Duy Ma Cật và đều nói “Không kham lãnh đến thăm bịnh ông”. 

Chú thích của phẩm IV

1.Bồ tát: Nói đủ là Bồ Ðề Tát Đỏa [Bodhisatra] Tàu dịch là Giác hữu tình, nghĩa là tự mình đã giác ngộ, lại hay giác ngộ cho chúng sanh.

Bồ Tát có 3 bực :
A) Những người mới phát tâm tu hành cầu pháp Ðại thừa, tu hạnh Bồ Tát, là Bồ Tát mới phát tâm
B) Những người học đạo Ðại thừa đã lâu đời, chứng đặng bực Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hướng cho đến Thập Ðịa là bực Bồ Tát tu lâu. 
C) Bồ Tát chứng bực Ðẳng giác (kề Phật gọi là Bổ xứ Bồ Tát). 

2. Di Lặc: (Maitreya) Tàu dịch là Từ Thị, là họ, tên là A Dật Đa. Ngài tu hạnh từ tâm không ai sánh bằng, sau sẽ ra đời nối Đức Phật Thích Cathuyết pháp độ sanh gọi là Bổ xứ Bồ Tát

3. Bất thối chuyển: Theo Ðại thừa pháp tướng có 3 bực : 
1) Vị bất thối: Từ khi phát tâm tin chắc lý Ðại thừa, trải muôn kiếp tu nhơn vào bực Thập trụ rồi không còn thối đọa trong đường sanh tử nữa. 
2) Hạnh bất thối: Ðã vào bực Sơ Ðịa, nơi hạnh lợi tha không còn lui sụt. 
3) Niệm bất thối : từ bực Bát địa nhẫn lên đặng Diệu trí vô công dụng, mỗi niệm mỗi niệm thẳng vào biển quả chơn như, không còn một niệm nào thối chuyển

4. Thọ ký: Ðức Phật đối với chúng sanh phát tâm Ðại thừa trao cho lời ký về sau ở nơi kiếp nào, sẽ thành Phật hiệu là gì, cõi nước tên chi và trụ thế bao lâu, độ sanh bao nhiêu. 

5. Vô sanh: Chơn lý Niết bàn không sanh không diệt. 

6. Chánh vị : Tức thật tướng thường trú Niết bàn của Tiểu thừa cũng gọi là chánh vị; chính là quả vị để tu chứng

7. Bồ đề tướng : Cái tướng không tướng là tướng Bồ Đề 

8. Chướng nguyện : Chơn như đạo lý không có sự mong muốn nên ngăn tất cả sự nguyện cầu. 

9. Bất nhị :Không hai; Ý và Pháp là hai mà Bồ đềvô tâm ý thì còn có pháp gì nữa, nên nói là không hai.

10. Các nhập không nhóm : 6 nhập trong và ngoài, tức 6 căn và 6 trần xung nhập nhau. Tự tánh nó vốn không, nên nói là không nhóm. 

11. Quang nghiêm : Là dùng trí tuệ quang minhphước đức quang minh trang nghiêm Pháp thân thanh tịnh, gọi là Quang nghiêm. 

12. Đồng tử : Chẳng luận là tuổi trẻ mới gọi là Ðồng tử, mà những vị tu hành từ nhỏ tới già trọn không phạm dâm dục, không mất hạnh thanh tịnh đều được gọi là Ðồng tử. 

13. Ðạo tràng : Là chỗ của đức Phật thành đạo như : tòa Kim Cang; hoặc chỗ cúng dường đức Phật, chỗ tu tập ngồi thiền, nơi chùa chiền cho đến những hạnh Pháp tu hành đắc đạo như trực tâm, thâm tâm v.v... cũng gọi là Ðạo tràng. 

14. Ðiều nhu : Ðối trị phiến não làm cho mềm đi. 

15. Ða văn : Rộng nghe Phật pháp, y theo chỗ nghe mà thật hành gọi là Ða văn. 
16. Chánh quán : Quán hiệp đúng như lời kinh Phật dạy là chánh quán, nếu quán khác là tà quán

17. Nhứt thiết chủng trí : Trí của Phật biết rõ tất cả đúng như thật

18. Trì Thế Bồ Tát : Là vị Bồ Tát giữ gìn Phật pháp, đem giáo hóa chúng sanh trong đời

19. Ba tuần : Tàu dịch là : Ác giả, sát giả tên thứ Ác maác ý, làm các việc ác, thường muốn làm dứt mất huệ mạng của người tu hành

20. Kiều Thi Ca : Là họ của trời Ðế Thích, tên là Thích Ðề Hoàn Nhơn. 

21. Tu pháp bền chắc : Có 3 pháp bền chắc là ở nơi thân mạngcủa cải đều quên bỏ, mà tu hành theo chánh đạo, sẽ được cái thân bất hoại, mạng vô cùng, của vô tận, dù cho trái đất cháy tan, kiếp số có cùng tận, mà 3 món ấy đều không tận, nên nói là bền chắc. 

22. Chánh sĩ : Tiếng Phạn là Bồ Tát, dịch là Chánh Sĩ, nghĩa là bực cầu chánh đạo tu hạnh Ðại thừa. 

23. Ngũ dục : Năm món làm khởi tâm ham muốn của người: 1) Sắc, 2) Thinh, 3) Hương, 4) Vị, 5) Xúc. Lại có chỗ nói : 1) Của cải, 2) Sắc đẹp, 3) Uống ăn, 4) Danh dự, 5)Ngủ nghỉ. 

24. Vui ba môn giải thoát, không vui phi thời : Ba môn 1)Không, 2)Vô tướng, 3)Vô tác. Ba thừa đều noi theo tu tập gọi là môn, cởi mở sự ràng buộc gọi là giải thoát. Tu hành chưa đến chỗ cùng tột, giữa chừng muốn thủ chứng như hàng Nhị thừa, đó là Phi Thời. Hàng Bồ Tát không muốn như thế nên nói là không vui phi thời

25. Trưởng giả tử Thiện Ðức : Là vị trưởng giả có căn lành đầy đủ, cội đức trồng sâu nên xưng là Thiện Ðức. 

26. Pháp thí : Thí có 3 cách : 
1) Tài thí : là dùng của cải bố thí cho người; 
2) Tâm thí : dùng tâm từ, tâm bình đẳng ban sự vui cho người. 
3) Pháp thí : nói pháp độ người làm những việc lợi ích chúng sanh hiện tạivị lai

27. Ngã : Phần tác động chủ tể

28. Pháp : Phần thể chất, hình tượng, nghĩa lý, vũ trụ

29. Lục niệm
1) Niệm Phật : tuởng niệm đấng thực hiện sự thực; 
2) Niệm Pháp : tưởng niệm sự thực; 
3) Niệm Tăng : tưởng niệm người thực hành sự thực;
4) Niệm Giới : tưởng niệm công đức giới pháp và sự giữ giới
5) Niệm thí : tưởng niệm sự bố thí
6) Niệm thiên: tưởng niệm sanh về cõi chư Thiên. Thiên có ba: 1) Tam giới thiên : cõi Dục, Sắc và Vô Sắc; 2) Tịnh thiên : cảnh giới của Nhị thừa sanh về. 3) Ðệ nhứt nghĩa thiên : cảnh giới của Bồ Tát sanh về. 

30. Sáu pháp hòa kính: 
1) Thân hòa kính : Thân nghiệp đồng cung kính nhau. 
2) Khẩu hòa kính: Khẩu nghiệp đồng ngợi khen khuyên nhủ nhau. 
3) Ý hòa kính : Tâm ý đồng tín mến nhau. 
4) Giới hòa kính : Ðồng giữ một giới pháp
5) Kiến hòa kính : Chỗ hiểu biết đồng giải bày cho nhau. 
6) Lợi hòa kính : Ðồng chia các món cúng dường

31. Nhứt tướng : Thể tánh chơn thật bình đẳng, không có tướng sai khác, nên gọi là Nhứt tướng. 


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49714)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34612)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33431)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43903)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57028)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47539)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39413)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38455)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52913)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36587)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32229)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40436)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43463)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31438)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46693)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36166)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28682)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29212)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31867)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28795)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33344)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29112)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60967)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39720)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26643)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29639)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37343)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40071)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26824)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42629)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37270)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28274)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28884)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26388)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27155)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26176)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34601)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27793)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30453)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33262)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28546)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30057)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25475)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21834)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51271)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26708)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28601)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27687)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24341)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27449)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31911)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30172)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27680)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35412)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27429)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 29994)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31750)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 22998)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24168)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23008)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant