Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 5

15 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 8716)
Phần 5


KINH DUY MA CẬT GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Phần 5

Trong này Phật dùng thí dụ mà mình không biết. Ngài nói rằng chư Thiên mỗi người đều có có bát báu giống nhau, nhưng mà tùy phước nhiều phước ít, đồ ăn trong bát đó, cái thì hiện ngon, cái thì hiện dở. Cái màu đẹp, cái màu xấu. Tùy theo cái phước của mỗi người. Cái thí dụ đó khó hiểu quá phải không? Với Phật thì hiểu chớ với mình thì chưa bao giờ biết. Chưa biết thì làm gì mà hiểu. Chúng ta chỉ có cái thí dụ gần nhất với chúng ta

Thí dụ như mình cùng ăn một bữa ăn. Thí chủ cúng cơm cho mình mâm cổ đầy hết. Cùng ngồi ăn nhưng mà tùy cái gì, ăn có ngon dở khác nhau. Tùy có bịnh không bịnh. Như Phước Hảo mà dọn một mâm đầy mà toàn những đồ chiên đồ xào, thì sao? Là khổ rồi. Còn những người nào bao tử khỏe mạnh thì người ta cảm thấy ăn ngon. Như vậy thì rõ ràng, cũng cùng ăn một mâm, cũng cùng những thức ăn đó, mà có người cảm thấy ngon, có người cảm thấy không ngon, sợ nữa. Như vậy rõ ràng, tùy cái nghiệp phước của mỗi người mà nó có hiện khác nhau. Chớ không phải đợi đồ ăn khác mới có khác. Chính những thức ăn đó mà có nhận định khác nhau. Thí dụ đó dễ hiểu hơn, thực tế hơn. Chớ nói bát báu của chư Thiên thì không bao giờ mình biết. Chưa từng thấy chư Thiên thì làm sao nói bát báu được. Như vậy chúng ta có thể hiểu rằng trong cuộc sống này, mỗi người chúng ta nếu mà tu hành thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh

Bây giờ trở lại cái gần nhất. Nếu toàn chúng ở trong Thường Chiếu này, ai nấy tu hành thanh tịnh. Tâm hồn thoải mái hết đó. Thì Thường Chiếu là chỗ đáng ngán hay đáng chán. Chán hay ngán? Hay là chỗ thích thú? Nếu ai nấy cũng đều thoải mái hết thì đây là chỗ thích thú. Thanh tịnh mà phải không? Còn nếu mà có những người nào tâm hồn không được thoải mái, taam hồn đang bực bội, đang bị phiền não thì thấy cõi này đáng chán, đáng ngán. Như vậy chán ngán hay không tùy theo mỗi người. Còn thấy có thích thú hay không cũng tùy theo mỗi người. Cho nên tâm chúng ta được an lành thanh tịnh thì ở đâu chúng ta cũng được an ổn, cũng vui tươi. Còn tâm chúng ta chưa an ổn, chưa thanh tịnh, ở đâu rồi cũng bực bội, cũng muốn xách gói đi chỗ khác nữa. Đó là thế thường như vậy. 

Chính khi đức Phật hiện cõi nước trang nghiêm thanh tịnh này, Ngài Bảo Tích dẫn theo 500 ông Trưởng giả đều được vô sanh pháp nhẫn. Tám muôn bốn ngàn người đều được phát tâm chánh đẳng chánh giác

Ngay trong thời gian thấy cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh đó, lúc đó ông Bảo Tích và 500 ông trưởng giả đều được vô sanh pháp nhẫn. Còn 8 muôn 4 ngàn vị khác phát tâm bồ đề. Đó là trường hợp thứ nhất. 

Trường hợp thứ hai: 

Phật mới nhiếp thần túc (Thần túc tức là thần thông của Ngài). Khi ấy thì thế giới trở lại như xưa, như cũ. Những người cầu Thanh Văn thừa có 3 muôn 2 ngàn chư thiên và người biết pháp hữu vi thảy đều vô thường. Xa lìa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. 8000 Tỳ Kheo không có thọ các pháp (Nghĩa là không có nhận các pháp lậu tận ý giải). 

Như vậy khi mà cảnh trang nghiêm thanh tịnh đang hiện thì Bồ tát liền được vô sanh pháp nhẫn. Hoặc là phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác. Còn hàng Thanh Văn và người thì thấy lúc đó sao. Dửng dưng hà! Không có gì hết. Nhưng khi Phật thâu thần túc lại rồi, thì từ hồi nãycõi tịnh, bây giờ thành cõi uế. Các Ngài liền làm sao? Liền ngộ được lý vô thường. Hồi nãy như vầy. Bây giờ khác đi. Như vậy rõ ràngvô thường. Bởi ngộ được lý vô thường cho nên lìa xa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Rồi các vị Tỳ Kheo chứng được Lậu Tận Ý giải

Như vâỵ mình mới thấy hạng Thanh Văn thì lại khác. Bồ tát thấy rõ cõi này nó nguyên là thanh tịnh. Mà vì chúng sanh mê nên thấy nó là bất tịnh. Khi hiện ra thanh tịnh liền phát tâm. Nhận được tịnh độtừ tâm. Bởi nhận tịnh độ từ tâm cho nên ngay đó các Ngài phát tâm hoặc các Ngài chứng đạo. Còn Thanh Văn thì không nhận được cái đó. Mà nhận được lý vô thường. Cho nên từ cõi tịnh biến thành cõi uế. Liền đó các ông thức tỉnh phải không? Thức tỉnh thì chứng được đạo quả của hàng Thanh Văn. Nay mới thấy hai trình độ sai biệt. Bởi hai trình độ sai biệt cho nên có kết quả sai biệt nhau. 

Nay tới Phẩm Phương Tiện. Chữ Phương Tiện lâu nay chúng ta cũng quen dùng rồi. Coi như là danh từ quen thuộc. Chữ Phương là phương pháp. Chữ Tiện là tiện dụng hay là tiện nghi đó. dùng một phương pháp mà dùng làm phương tiện để giải quyết mọi việc trong lúc tạm thời thì gọi đó là phương tiện. Bởi vì Phương Tiện ngược với chữ cứu cánh. Cứu cánh là chuyện lâu dài, cái cao tột. Còn Phương tiện là cái tạm thời. Bởi vậy nên nói phần Phương Tiện là chỉ cho những việc làm không phải là chỗ chủ yếu. Cứu cánh hiện như thế này mà làm như thế khác, thì gọi đó là phương tiện

Khi ấy ở trong thành lớn Tỳ Da Ly có ông Trưởng Giả tên là Duy Ma Cật. Ông đã từng cúng dường vô lượng Phật. Và sâu gieo trồng gốc lành, được vô sanh nhẫn. Biện tài vô ngại. Du hí thần thông và được các tổng trì. Được vô sở quí, hàng maan ủi những kẻ oán thù. Vào sâu trong pháp môn khéo nơi trí mà độ người. Thông suốt phương tiện, đại nguyện được thành tựu. Rõ thấu được chỗ thú hướng của tâm chúng sanh. Lại hay phân biệt các căn lợi và độn. Ở lâu trong Phật đạo, tâm đã thuần thục. Quyết định về đại thừa và các sở hữu là các cái đã có. Lại khéo hay suy lượng. Trụ ở oai nghi Phật. Tâm rộng như biển cả. Chư Phật khen ngợi. Đệ tửđệ tử Phật. Hoặc là Đế Thích. Hoặc là Phạm Thiên. Hoặc là thí chủ đều cung kính

Đây là tán thán cái khả năng, công đức của ông Duy Ma Cật trước đã có. Bởi ông có sẳn những công đức như thế này. Cho nên ông mới hay làm những phương tiện như ở sau. Đó là để nói lên cái khả năng, công đức của ông. Cho nên khi mình học kinh, mình đừng đồng hóas mình với các vị Bồ tát. Nếu muốn đồng hóa thì phải đối chiếu công đức của các Ngài trước phải không? Rồi sau mình mới làm. 

Thí dụ như ở đây có đoạn ông nói rằng, vô trong quán rượu, lại sòng bạc... khi ông dám lại đó, thì công đức ông được thần thông du hí tự tại rồi. Còn mình vô đó thì mình được cái gì chưa. Mình còn đang là kẻ nhơ nhiễm mà vào chỗ đó thì nhiễm nhơ thêm. Bởi vậy các việc làm của các vị Bồ Tát, các Ngài có quyền làm như vậy, là khi các Ngài đã đầy đủ những khả năng, thành tựu các công đức rồi thì khi làm nó không trở ngại. 

Bây giờ tới đoạn này là phương tiện của Ngài. 

Vì muốn độ người, khéo dùng phương tiện ở tại thành Tỳ Da Ly. 

Vì muốn làm lợi ích cho người, cho nên phương tiện làm ông cư sĩ. Làm ông trưởng giả ở thành Tỳ Da Ly này. 

Của cải vô lượng để dùng thu nhiếp những người nghèo khổ. Giữ giới thanh tịnh để thu nhiếp những người giữ giới cấm. Dùng cái nhẫn nhục để điều phục những người nóng giận. Dùng cái đại tinh tấn để nhiếp phục lười biếng. Dùng nhất tâm thiền định để nhiếp phục những người loạn ý. Dùng trí tuệ quyết định để nhiếp phục những người vô trí. Tuy làm người cư sĩ mà vâng giữ giới luật. Thực hành hạnh thanh tịnh của hàng Sa Môn

Tuy là hình thức cư sĩ mà ông làm cái hạnh giữ giới luật thanh tịnh của hàng Sa Môn. Tuy là người tại gia mà ông không có nhiễm trước trong tam giới. Thường thường nói người tại gia mà không nhiễm trước trong tam giới là ý làm sao. Thường mình ở cõi này thì gọi là cõi dục phải không? Trong cõi dục này mình có nhiễm nó chưa. Ở ngay trên cõi dục là cõi thấp nhất trong tam giới mà mình đã nhiễm, đã thích rồi. Còn Ngài ở trong hàng cư sĩ mà cả tam giới này không nhiễm. Như vậy là để nói tâm giải thoát phải không? Tuy ở hàng cư sĩ mà tâm vẫn giải thoát

Thị hiệnvợ con mà thường tu cái hạng trong sạch. Hiện có quyến thuộc mà thường ưa xa lìa. Tuy là mặc đồ trang sức đẹp đẽ mà dùng tướng hảo để trang nghiêm thân. 

Tướng hảo trang nghiêm thân, mặc đồ đẹp đẽtrang nghiêm thân rồi. Tại sao còn nói dùng tướng hảo để trang nghiêm thân. Bởi vì trong kinh Phật dạy, Phật sở dĩ có 32 là không phải dùng vàng ngọc châu báutrang nghiêm, phải không? Mà do cái công đức, do tu hành những công đức mà được 32 tướng tốt. 

Thí dụ như nói, Phật có tướng lưỡi rộng dài là vì ba đời Ngài không nói dối. Như vậy mỗi một tướng là một công đức tu. Bởi công đức tu mà được tướng tốt. Như vậy tuy bây giờ ông trưởng giả này, ông cũng có đồ trang sức, áo quần đẹp đẽ này kia. Nhưng ông không thấy đó là quan trọng. Ông chỉ dùng 32 tướng tốt trang nghiêm. Chớ không đặt vấn đề trang sức quần áo, hay là lụa là, hay là vàng ngọc để mà trang sức. 

Tuy lại ăn uống mà dùng cái thiền duyệt làm vị. 

Cũng ăn uống mâm cao cổ đầy nhưng ông không thấy đó là quan trọng. Mà ông lấy cái thiền duyệt làm cái vị ăn cho nên nói thiền duyệt vi thực đó. 

Bây giờ mấy chú lấy cái gì làm thức ăn. Bánh trái làm thức ăn hay lấy cái thiền làm thức ăn? Nếu lấy cái thiền thì coi bộ chán quá. Nuốt không trôi phải không? Ngồi thiền mà chừng khoảng một giờ rưởi sau, nó còn khỏe không? Bởi vậy nên người tu cao, khi tâm họ được an định, thân họ được nhẹ nhàng rồi, thì ngồi thiền là cái thảnh thơi nhất. Cái an lành nhất. Bởi ngồi thiềnthảnh thơi, là an nhàn, cho nên nói là Thiền duyệt vi thực. 

Duyệt là vui. Vui trong cái tọa thiền, tu thiền đó làm thức ăn. Nghĩa là hôm ngào, ngày nào thiếu một giờ ngồi thiền là coi như đói vậy đó. Còn mình bữa nào thiếu một giờ ngồi thiền, được ngủ thì coi như gì. Như no vậy đó, chớ không phải như đói. Đó là chưa được tự tại an lành trong cái tu. Vì vậy ông là cư sĩ tuy có ăn uống mâm cao cổ đầy, nhưng cái đó đối với ông không có quan trọng. Mà ông lấy cái thiền duyệt làm cái vị ăn. 

Nếu ông đến chỗ cờ bạc, đến chỗ hát xướng. 

Hí trường tức là hát xướng đó. 

Để vì nhiếp độ họ. 

Nhiếp độ người chớ không phải tới đó là chơi mà hưởng. 

Ông nhận (hay là ông học) các đạo khác mà không có hủy hoại chánh tín. Tuy ông thông suốt (minh tức là rõ hết) kinh điển thế gian mà ông thường ưa Phật pháp. Tất cả chỗ thấy của ông đều là cung kính

Cung kính cái gì? Cung kínhcúng dường là cái tôn trọng bậc nhất. Bởi vì theo cái thấy của ông, cúng dường tam bảo, đó là cái ông tôn trọng bậc nhất. Ông giữ gìn chánh pháp. Ông nhiếp phục người lớn và kẻ nhỏ. Tất cả sự sinh sống ông đều vui. Kêu bằng thoải mái đó (Hài ngẩu). Như bây giờ nói hài hòa đó. Ý vui thích trong cuộc sống. Về phương tiện sống thì ông rất thoải mái, không có gì trở ngại hết. 

Tuy được hết cái lợi của thế tục mà không cho đó là vui. 

Những cái lợi của thế tục, như làm ăn đâu đó hết. Không cho đó là vui. 

Ông dạo các ngã tư đường làm lợi ích cho chúng sanh. Ông vào chỗ chánh trị thì lấy pháp mà cứu hộ tất cả. Ông vào chỗ giảng luận thì ông hướng dẫn người ta về đại thừa. Ông vào các học đường để dạy bảo để khai mở cho hàng đồng mông. Ông vào những chỗ dâm xá, cốt để chỉ lỗi cho người ta lập được ý chí. Vào quán rượu không phải vì uống rượu mà để chỉ cho người ta biết rượu là hại, rồi lập chí bỏ rượu... Nếu ông ở trong trưởng giả thì trong trưởng giả tôn kính, vì nói pháp thù thắng. Nếu ở trong cư sĩ cung kính vì họ mà ông đoạn trừ tâm tham trước. Nếu ông ở trong dòng Sát Đế Lỵ thì trong hàng Sát Đế Lỵ tôn kính. Ông dạy họ phương pháp nhẫn nhục... 

Sát Đế Lỵ là dòng võ tướng, chinh phục, cầm binh ra trận. Cho nên tới đó ông phải dạy họ cách nhẫn nhục

Nếu ông ở trong dòng Bà La Môn thì trong Bà La Môn tôn trọng. Vì họ mà dạy họ trừ hết ngã mạn

Bà La Môn là dòng cao nhất, nên tâm ngã mạn, khinh hết các dòng. Tới đó ông dạy cho họ diệt trừ ngã mạn

Nếu ở trong Đại thần thì là Đại thần tôn kính, thọ chánh pháp. Nếu ở trong hàng vương tử thì trong hàng vương tử tôn kính, chỉ dạy cho họ trung hiếu. Nếu ở trong nội cung thì trong nội cung tôn kính, giáo hóa họ làm người cung nữ chân chính. Nếu ở chỗ thứ dân thì thứ dân tôn trọng, dạy cho họ làm những điều phước lành. 

Nếu ở chỗ Phạm Thiên thì là Bậc Phạm Thiên cung kính. Dạy bảo họ trí huệ thù thắng. Nếu ở trong hàng Đế Thích thì được trong hàng Đế Thích tôn trọng, thị hiện cảnh vô thường

Tại sao ở trong hành Đế Thích thị hiện cảnh vô thường mà không dạy cái gì. Bởi vì Đế Thích đang ở cõi trời, thừa hưởng ngũ dục lạc nên mê quá đi. Mê hưởng mà không biế tu. Nên tới đó hiện cảnh vô thường. Hiện cảnh vô thường họ giựt mình thì họ tu. Thấy có người chết, thấy người bệnh, thấy người già để cho họ thức tỉnh

Nếu ở trong cõi trời Hộ Thế thì trong cõi trời Hộ Thế tôn trọng mà bảo hộ các chúng sanh. Ông trưởng giả Duy Ma Cật dùng vô lượng phương tiện như thế để làm lợi ích cho chúng sanh

Như vậy tất cả việc làm ở cảnh nào ở trường hợp cũng nhắm thẳng cái lợi ích cho người mà ông ở hoàn cảnh đó. Chớ không phải vì thụ hưởng vì an vui riêng mình mà ở trong cảnh đó. Như vậy ở trong cảnh giàu, ở trong cảnh quan quyền, ở trong cảnh dòng họ cao quí... Đều là vì thức tỉnh họ. Vì để cảnh giác họ chớ không vì thụ hươngr bản thân mình, cá nhân mình. Đó là để nói phương tiện của Ngài là như vậy. Đây thêm cái phương tiện nữa. 

Do phương tiện kia mà Ngài hiện thân có bệnh. Bởi vì Ngài có bệnh cho nên Quốc vương. Đại thần, Trưởng giả, Cư sĩ, Bà la Môn... và các hàng Vương tử, những bá quan khác, các Ngài quan thuộc vô số cả ngàn người đều đến thăm bệnh ông. Những người đến đó nhân dùng, hay là lấy cái thân bệnh mà rộng vì họ nói pháp. 

Nhân cái thân ông bệnh mà ông vì họ nói pháp. Như vậy ông bệnh là cốt nói pháp cho các vị đó nghe. Chớ không phải ông bệnh là vì nghiệp chướng của ông mà phải bệnh. Bây giờ giả sữ chúng ta không có đượv như ông mà lỡ có bệnh thì sao. Có nên nói pháp cho người khác nghe hay là có bệnh nên rên. Tuy rằng mình không được như ông, nhưng lỡ có bệnh, ai tới thăm, đó cái thân vô thường vậy đó. Mới hôm qua tôi đi sân sẩn, nay tôi nằm queo đây. Nhắc cho người ta tỉnh. Như vậy cũng là nhân thân bệnh mà cảnh tỉnh người. Chớ đừng nhân thân bệnh, người ta tới rồi rên hì hì... nhiều khi còn than thở nữa. 

Đây ổng giáo hóa cách làm sao? 

Này các nhân giả, cái thân này là vô thường, nói không có mạnh mẽ, nó không có sức lực, nó không có bền bỉ, nó là cái pháp mau chóng hữu hoại. 

Tức là bại hoại. Cái thân này vô thường, không mạnh mẽ, không sức lực, không bền bỉ, nó là pháp mau bại hoại. Không có thể tin được vậy. Bây giờ mấy chú tin được thân mình không. Tin không? Bây giờ có ai biết mình tới bao giờ chết đâu, phải không? Nếu tin mình nói: tôi biết tôi tới 80 tuổi, ngày mấy tháng mấy tôi chết đó, thì mới tin, chớ còn bây giờ không biết. Ngay nay đi đây chớ ngày mai chết cũng có. Ngồi đây ngày mai bệnh cũng có, không có nhất định gì hết. Không biết ngày mai ra sao, làm sao tin, vậy mà cứ tin. Ngầm tin mình sống lâu, ngầm tin mình khỏe mạnh, mình sống lâu. Cho nên nếu ai báo tin mình sắp chết, cái hoảng lên. Mình mạnh khỏe, nên khi ngã bệnh cũng tức tối bực bội. Chớ hiểu rõ thân này không có gì bảo đảm. Đã không bảo đảm thì có gì chúng ta đáng tin

Nó là khổ, nó là não, nó là chỗ nhóm họp của các bệnh 

Cái thân nào là khổ là não, là nhóm họp của các bệnh. Bây giờ mỗi người kể lại coi mình có mấy bệnh. Cỡ như Thông Tạng có mấy bệnh. Thực là chỗ nhóm họp của các bệnh, phải không? Không có gì an ổn hết. 

Này các nhân giả, cái thân nó như thế, người trí sáng suốt thì không nên trông cậy vào nó. 

Chữ cổ là nương, không có trông cậy vào nó. 

Điểm thứ nhất bảo mình đừng tin cậy vào nó. 

Điểm thứ hai là bảo mình đừng trông cậy vào nó. Vì nó có đáng tin đâu mà tin. Bởi vì nó là khổ não thì làm sao tin cậy vào nó được. 

Thân này như chùm bọt nước, không thể nắm bắt. 

Mình ra ngoài biển mình thấy từng cụm bọt phải không? Bọt nó nổi, mình nắm nó thì sao? Nắm tới đâu nó tan tới đó. 

Thân này như bong bóng nước, không được lâu bền. 

Như vậy mới thấy khi hạt mưa rơi cái chỏm xuống mái nhà, thấy bong bóng nổi lên. Nổi lên rồi sao? Vừa thấy bong bóng rõ ràng, chút rồi nát. Như cái thân không bền bỉ. 

Cái thân này như ánh sáng. Lằn chớp sáng từ nơi khát ái mà sanh. 

Dương điện tức là như sóng nắng, từ khát ái mà sanh, nó không có thật, mà vì khát ái. Khát ái là sao? Ái là yêu thích. Khát là thường thường nói con nai khát nước quá, nó nhìn thấy đằng xa ánh nắng chập chờn. Nó tưởng rằng là dòng nước, nó ù tới để tìm uống. Nhưng mà ù tới rồi sao? Tới rồi nó thất vọng. Không có nước. Mình yêu thích thân này, nó thèm khát, nó mong mỏi, nó cứ bám giữ. Mà bám giữ được không? Bám giữ tới đâu đó, rồi cũng nát cũng hoại. Không có bền lâu

Thân này như cây chuối, trong không có lõi chắc. 

Vô hữu kiên: không có chắc. Cây chuối mình lột ra làm sao? Cứ từng bẹ tách ra, tách ra. Kiếm thân cây cứng chắc không có. 

Thân này như huyễn hóa. Từ điên đảo mà khởi. Thân này như mộng. Do cái thấy hư dối mà thành. Thân này như cái bóng, từ nơi nghiệp duyên mà hiện. Thân này như vang, nó thuộc về các nhân duyên. Thân này như mây nổi, trong chốc lát nó liền biến diệt. Thân này như làn điện chớp. Mỗi niệm nó không dừng. Thân này không chủ như là đất. Thân này không có ngã như là lữa. Thân này không có thọ mạng như là gió. Thân này không có người như là nước. Thân này không có thật, do tứ đại làm nhà. Thân này là không lìa ngã và ngã sở. Thân này là vô tri như là cỏ cây, ngói gạch. Thân này không tạo tác, do sức gió mà chuyển. 

Nói thân này không tạo tác, mình không chịu. Mình thấy mình cuốc đất, mình gặt lúa. Mình làm đủ thứ hết, mà nói không tạo tác, mình chịu không? Nói khó hiểu quá! Nhưng mà sự thật ở đây, tất cả hoạt động của mình, từ gió mà ra cả. Bây giờ mấy chú ăn là nghĩa làm sao? Uống nghĩa là sao? Khi uống nước là sao? Có gió hút vô không? Mình uống nước là lấy hơi gió hút vô. Nước nó theo. Rồi tới ăn cũng vậy. Nếu hoài mà không có gió nó nuốt vô thì nó có vô được đâu, phải không? Như vậy ăn cũng nhờ gió, uống cũng nhờ gió. Đem vô rồi nuôi thân này. Rồi hoạt động, tim đập, máu chảy. Các cơ thể hoạt động đều từ gió hết. Khi đem vô rồi, tới tống ra có nhờ gió nữa không? Cũng phải nhờ gió. Như vậy tất cả hoạt động đều là gió, chớ đâu phải làm mình. Mình không biết, mình tưởng có mình làm chủ, mình làm này làm kia. Nhưng mà không ngờ chính tất cả cái đó là do sức gió mà làm ra như vậy. 

Thân này nó nhơ nhớp, ô uế dẫy đầy. Thân này là hư dối (Tuy nhờ tắm gội, ăn mặc).Thảy đều trở về tiêu diệt. Cái thân này là tai họa. 101 bệnh nó sinh, nó làm não loạn. Thân này như là cái gò giếng bị cái già nó bức bách. Thân này nó không có nhất định là chủ yếu hay cốt yếu phải đến chết. 

Thân này có định gì đâu. Cần là đi tới chỗ chết là cùng. 

Thân này là rắn độc. Như là kẻ oán thù, cướp giựt. Như là xóm rỗng. Nào là ấm, giới, các nhập chung hợp mà thành. 

Như vậy kể một mạch thì thấy cái thân ra sao. Thực ra Ngài kể thì quá kỹ. Kỹ vô cùng phải không? Thân này nó không đáng tin. Thân này không đáng nương cậy. Thân này tạm bợ. Thân này là tạm bợ. Thân này là tai họa. Thân này là nhơ nhớp. Thân này như rắn độc. Vừa rồi tôi kể đó. Thân này là kẻ oán thù, kẻ giặc cướp vậy đó. Nó cứ giựt của nhau. Rồi nó không tụ như cái chỗ rỗng, rồi hợp lại, chớ có gì thật đâu. Rồi nào là ấm, nào là giới, nào là nhập chung lại mà thành chớ cái gì thật là thân. Vậy mà mình thấy cái thân là thật. Nếu mình biết rõ thân không bền, thân không đáng trông cậy. Thân là tạm bợ. Thân là nhớp nhúa. Thân là khổ đau. Tất nhiên thân còn gì là quí, phải không? Mà không quí thì còn gì chấp. Mà không chấp thì đó là nhân để rồi đi tới vô ngã, tới giải thoát


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22313)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16032)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15044)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18974)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14457)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18642)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14439)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13601)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13563)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11830)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13279)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13678)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13950)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13261)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15037)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16171)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11094)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16468)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11931)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17611)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12887)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13727)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12867)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14865)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16403)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13142)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12108)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12783)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12931)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12798)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14189)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14141)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16496)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12399)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14402)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11337)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11046)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13204)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13900)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13174)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13015)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13517)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12746)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10242)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13980)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10245)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13715)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16278)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11985)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12990)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11667)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12692)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10811)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11016)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10957)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11910)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12782)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11078)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12635)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11343)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant