Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 6 Thọ Ký

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 7296)
Phẩm 6 Thọ Ký

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 6

THỌ KÝ

I. LƯỢC VĂN KINH

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo đại chúng : “Ma Ha Ca Diếp trong đời vị lai sẽ phụng thờ, cúng dường, cung kính tôn trọng, ngợi khen, giảng nói vô số giáo pháp của 300 muôn ức Phật. Và ở thân sau cùng sẽ thành Phật hiệu là Quang Minh, nước tên Quang Đức, kiếp tên Đại Trang Nghiêm. Đức Phật Quang Minh thọ 12 tiểu kiếp, chánh pháp trụ thế 20 tiểu kiếp, tượng pháp cũng vậy.

“Thế giới Phật Quang Minh tốt đẹp, không có gai góc, đất bằng lưu ly, cây báu thẳng hàng, dây vàng giăng bên đường, hoa báu rải khắp nơi và mọi chỗ đều trong sạch. Trong nước đó, Bồ tátThanh văn đông vô số. Tuy có ma và dân ma nhưng họ không làm việc xấu ác mà chỉ hộ trì Phật pháp”.

Khi Phật nói xong, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Đại Ca Chiên Diên đều chắp tay bạch Phật rằng : “Nếu Ngài thấu hiểu thâm tâm chúng con, xin Ngài thọ ký cho chúng con. Chúng con như kẻ đói được cho ăn, mà chưa dám ăn. Dù Phật đã nói tất cả sẽ thành Phật, nhưng chưa được Ngài thọ ký, lòng chúng con vẫn còn lo sợ nghi ngờ”.

Đức Phật biết tâm niệm của các vị đại đệ tử này liền nói với Tu Bồ Đề : “Trong tương lai, Tu Bồ Đề sẽ phụng thờ, cúng dường các Đức Phật, tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ tát. Và ở thân cuối cùng sẽ thành Phật hiệu Danh Tướng Như Lai, Ứng cúng Chánh đẳng giác. Thế giới cũng tốt đẹp như thế giới của Phật Quang Minh. Đức Phật Danh Tướng thọ 12 tiểu kiếp, chánh pháptượng pháp đều trụ 20 tiểu kiếp”.

Tiếp theo, Đức Phật thọ ký cho Ngài Ca Chiên Diên trong tương lai thành Phật hiệu Diêm Phù Na Đề Kim Quang, sau khi ông cúng dường Phật, xây dựngcúng dường tháp miếu đầy đủ đạo hạnh Bồ tát. Đức Phật thọ 12 tiểu kiếp. Thế giới trang nghiêm thanh tịnh như hai vị trên.

Và sau cùng Ngài Mục Kiền Liên cũng được Phật thọ ký. Trong tương lai, trải qua quá trình cúng dường chư Phật và xây dựng tháp miếu sẽ thành Phật hiệu là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai Ứng cúng Chánh đẳng giác. Kiếp tên Hỷ Mãn, nước tên Ý Lạc. Đức Phật thọ 24 tiểu kiếp, chánh pháptượng pháp đều trụ ở đời 40 tiểu kiếp. Thế giới cũng trang nghiêm như các vị trên.

II. GIẢI THÍCH

Trong phẩm Thí dụ, Đức Phật đã thọ ký cho Xá Lợi Phất là người trí tuệ bậc nhất nhưng chỉ thọ 12 tiểu kiếp. Trong khi các vị La hán kế tiếp và những hàng đệ tử đang tu học là những người chưa đắc A la hán lại được thọ vô lượng kiếp. Tại sao quả báo của những người được thọ ký trước nhỏ hơn những người sau ?

Chúng ta nhớ lại trong phẩm Phương Tiện, Đức Phật dạy những gì Ngài nói và làm trên cuộc đờichúng ta nhìn thấy được, không phải chân thật. Tất cả đều là phương tiện độ chúng sanh rời bỏ tâm chấp trước để tiến tới Vô thượng giác. Với trí tuệ của bậc Chánh biến tri, Đức Phật nói pháp tương ưng với tâm niệm chúng hội. Trước khi Ngài nói kinh Pháp Hoa, chỉ có Bồ tát được thọ ký thành Phật. Vì Bồ tát được xem như người từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh, được pháp phần Phật, mới đủ tư cách và khả năng thành Phật.

Đức Phật dùng phương tiện xác định sự bình đẳng của mọi người khi nước mắt cùng mặn, máu cùng đỏ. Vì đột nhiên, nếu Ngài dẹp bỏ hoàn toàn bộ luật cay nghiệt phân chia giai cấp và quyền tập ấm có từ lâu đời, mọi người khó chấp nhận nghe theo. Đức Phật là bậc thấy đúng, nói đúng lúc, đúng chỗ, Vì vậy, đối trước quan niệm nặng về thừa kế theo huyết thống “con vua mới được làm vua”, Ngài thuận theo pháp thế gian dạy rằng chỉ có Bồ tát sẽ thành Phật. Còn Thanh văn không phải Phật tử, không thọ ký cho Thanh văn thành Phật được, giống như con của dòng họ thường dân không làm vua được.

Vì thế lần đầu tiên Đức Phật thọ ký cho Bồ tátduy nhất chỉ có Bồ tát Di Lặc thành Phật, vì con vua thì chỉ có một người được làm vua. Các Bồ tát là con đấng Pháp vươngBồ tát Di Lặc giống Phật, gần Phật nhất vì thừa kế tâm từ của Đức Phật Thích Ca. Ngài ở đúng vị trí của Phật Thích Ca nơi Đâu Suất nội viện, làm đúng việc của Phật Thích Ca làm, nhập được từ tâm tam muội, phổ cập lợi ích tất cả muôn loài. Ngài được chọn lựa và thọ ký thành Phật là điều tất yếu, không gây thắc mắc nghi ngờ.

Ở giai đoạn trình độ chúng hội còn thấp, Đức Phật chỉ giới thiệu Bồ tát Di Lặc là người thừa kế mà hàng Thanh văn không hề biết. Nhưng đến thời giáo hóa chuyển từ Tiểu sang Đại của kinh Duy Ma, vấn đề thọ ký được hiểu sâu sắc hơn dưới dạng khác.

Duy Ma chất vấn Di Lặc được đức Phật thọ ký một đời thành Phật, một đời này là đời nào ? Theo Duy Ma, một đời đối với quan niệm thế gianmột lần sanh, một lần chết. Nếu thọ ký thành Phật chỉ có như vậy, Duy Ma chẳng mong được thọ ký.

Thọ ký một đời là đời trên sanh diệt hay pháp tánh ? Trên sanh diệt môn luôn biến đổi, có gì đáng cho hành giả xuất trần quan tâm, nên thọ ký trên dạng sanh diệt trở thành vô nghĩa. Nói cách khác, làm Phậtthế giới sanh diệt, Duy Ma không muốn làm.

Trái lại, đứng trên bất sanh bất diệt thọ ký thì cần gì thọ ký. Vì bản thể vốn vô sanh, bản lai diện mục của ta từ nghìn xưa cho đến ngày nay và mãi đến nghìn sau không thay đổi. Ở trên pháp tánh thì Duy Ma, Di Lặc, Thích Ca và tất cả mọi người đều là Phật.

Từ thắc mắc gợi ý của Duy Ma, trước khi Niết bàn, Đức Phật thọ ký ở hội Pháp Hoa để giải quyết vấn đề tồn tại cho hàng trí thức. Vì vậy vấn đề thọ ký có ba cấp.

Cấp thứ nhất xác định chỉ có Di Lặc làm Phật, điều này biểu hiện rõ nét Đức Phật ứng theo pháp thế giantâm lượng con người bấy giờ mà nói.

Đến hội Pháp Hoa Đức Phật quán thấy đã đúng thời tiết nhân duyên nói lên sự thật rằng hàng Thanh văn cũng thành Phật. Và Ngài chọn Xá Lợi Phất là bậc thượng thủ trong đại chúng để thọ ký. Vì Xá Lợi Phất tu tập thiền định, hạ thủ công phu phá vỡ được cái vỏ phân biệt dày đặc từ bao đời của ý thức trên hiện tượng giới, thấy được Ngài cũng như Di Lặc, Phật và chúng sanh đồng một thể nên xứng đáng được hưởng sự bình đẳng thọ ký.

Khi quan sát tâm trạng đại chúng nửa mừng nửa sợ trước việc Xá Lợi Phất được thọ ký, Đức Phật biết được họ có chiều hướng tiến bộ, có khởi lên ý niệm hy vọng làm Phật. Khác với trước kia, họ nghĩ rằng được làm dân trong nước Phật đã quá đủ hay an phận với quả vị La hán trọn yên lành rồi, không ước mơ gì hơn và cũng không dám mong thành Phật. Đức Phật tiếp tục thọ ký cho bốn vị thượng thủ đầy đủ oai đức Ca Diếp, Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề, Mục Kiền Liên và các vị Thanh văn khác.

Đến thọ ký ở mức độ thứ ba, dành cho tất cả hành giả sau khi Đức Phật diệt độ, được Ngài xác định trong phẩm thứ 10 rằng những người đời sau nghe kinh Pháp Hoa một bài kệ một câu cho đến một niệm tùy hỷ, Ngài đều thọ ký. Tất nhiên chúng ta là người nhận lãnh sự thọ ký ở dạng này.

Đến đây vấn đề thọ ký Duy Ma thắc mắc đã được giải quyết. Thọ kýpháp tánh mới là thọ ký thực. Lặn sâu vào pháp tánh ai cũng thành Phật. Trên pháp tánh, ta là Phật đã thành, nhưng ở trên pháp tướng ta là Phật sẽ thành. Nhận sự thọ ký là nhận ở bản thể, nhưng tu hành trên phương tiện. Vì vậy hành giả phát tâm bồ đề phải phát từ bản thể và từ bản thể hiện lên nhân gian sanh diệt hành đạo.

Dung hòa được cả hai mặt này, hành giả mới thấy chân lý, mới thành Phật. Ý này được Duy Nhiên thiền sư diễn tả trong bài Sám Quy Mạng “Bất xả pháp giới, biến nhập trần lao”. Nghĩa là hiện hữu trên cuộc đời nhưng tâm không rời bản thể, làm mọi việc đều vì lợi ích tha nhân. Như đức Phật Thích Ca giáo hóa tùy người, tùy chỗ, tùy thời để khơi dậy tâm bồ đề cho người. Nhờ tâm luôn sống với pháp tánh, sống trong tình thương của Đức Phật, dù có biến cố gì xảy ra cũng không chi phối tâm hành giả. Đạt được như vậy, hành giả mới đủ sức làm đạo trong cõi Ta Bà ác trược này.

Trở lại vấn đề một cách chi tiết hơn, tại sao Đức Phật không thọ ký cho hàng Thanh văn ? Chúng ta thường nghĩ Đức Phật thọ ký nghĩa là gia hộ cho người đó và Ngài sẽ rước lên Niết bàn.

Theo tinh thần Phật giáo Nguyên thủy, Đức Phật là vị đại Đạo sư tìm ra chân lý, mang nếp sống lý tưởng này dạy chúng ta. Chúng ta muốn thành Phật phải đi theo lộ trình Ngài đã đi, làm những việc Ngài đã làm. Từ đó, Phật giáo Đại thừa căn cứ vào lời Phật dạy đào tạo con người vô ngã vị tha, xây dựng đất nước trù phú an vui cho đến bằng với Phật, cùng sống trong Phật quốc thanh tịnh. Điều này khác với tinh thần yếm thế tiêu cực của Thanh văn, xa lánh cuộc đời, không nghĩ tới sinh hoạt xã hội.

Vì thế, dưới nhãn quan của Đại thừa, Thanh văn là người tiêu nha bại chủng, nghĩa là hạt giống chết nên không lên cây. Nói cách khác, hàng Nhị thừa không được làm Phật, vì họ không có ý muốn làm Phật, ví như ông thầy thuốc giỏi cũng không thể nào cứu được người muốn chết.

Trong khi Bồ tát hiện tại chưa thành Phật, nhưng tương lai sẽ thành Phật. Vì đời đời kiếp kiếp các Ngài nuôi dưỡng ước vọng thành Phật một cách nhiệt tình và thể hiện ý chí đó bằng cách tích cực nhập thế, đem hết khả năng xây dựng cho mình và tha nhân cùng thăng hoa.

Tuy nhiên, đến khi nhận thấy hàng Thanh văn từ bỏ tâm Tiểu thừa, hướng về Đại thừa, phát tâm bồ đề, Đức Phật mới dạy phương cách làm Phật. Bốn vị Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Ca Chiên DiênTu Bồ Đề tiêu biểu cho hàng Thanh văn hồi tâm phản tỉnh, cảm nhận được tam thừaĐức Phật trao cho, chỉ nhằm mục tiêu duy nhất dìu dắt những người khổ trong tam giới ra khỏi sanh tử đến Niết bàn. Và Niết bàn này chỉ là Niết Bàn tạm. Vì bỏ thực tế không dính líu cuộc đời, đời sẽ để ta yên, bình yên này có tính cách giả tạm. Đức Phật dạy muốn xây dựng con đường an lành vĩnh cửu, hành giả không thể đi ngoài lộ trình Bồ tát đạo.

Đức Phật xét thấy nhận thức của đệ tử Thanh văn hiện nay khác với tâm niệm chán đời khi còn ở Lộc Uyển hay thành Xá Vệ. Vì các Ngài đã qua quá trình 20 năm gạn lọc tâm. Tâm hồn bình ổn, tích lũy ít nhiều công đức, bắt đầu hiểu Phật, gần Phật, muốn làm theo Phật, hướng thượng cầu Bồ đề. Bấy giờ Đức Phật mới dìu dắt chúng Thanh văn đi lên, vẽ ra con đường tiếp cận giáo hóa chúng sanh, hành Bồ tát đạo để thành Phậtthọ ký cho các Ngài.

Thiên Thai Trí Giả gọi phần này là Nhị thừa đắc ký. Trước kia hàng Thanh văn chưa phát tâm bồ đề, không muốn thành Phật. Hay họ chưa có tâm thương chúng sanh, chưa hề nghĩ đến giáo hóa chúng sanh, huống chi là làm công việc giáo hóa.

Tất cả tâm niệm này của Thanh văn không tương ưng với lòng từ bi bao lacông hạnh xả kỷ vị tha của đức Thế Tôn. Làm thế nào Ngài thọ ký cho Thanh văn được. Tuy nhiên, Đức Phật dạy rằng mặc dù tu hạnh Thanh văn, kỳ thực là nhân Bồ tát. Vì nếu không có Phật ra đời, các vị này là Thanh văn không có tâm hướng thượng. Nhưng dưới sự chỉ dạy của Đức Phật, hạnh Thanh văn của các Ngài biến thành Bồ tát hạnh.

Thật vậy, hình dáng và cuộc sống của Thanh văn giống như Đức Phật, gợi cho người nhìn thấy tưởng nghĩ đến Phật và trở về quy y với Phật. Như vậy, Thanh văn tuy mang tâm niệm tiêu cực vẫn gián tiếp đóng vai trò giáo hóa chúng sanh như Bồ tát.

Sự thật, hành giả theo Phật nghe pháp, thâm nhập và sống với pháp được, đương nhiên giữa hành giả và Phật có mối liên hệ sâu xa. Cho nên nghe, học, sống với pháp Phật, tất yếu phải thành Phật. Pháp Thanh văn, Duyên giác chỉ là phương tiện giáo hóa của Phật mà thôi.

Điều kiện thành Phật của bốn vị đại đệ tử Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Ca Chiên DiênTu Bồ Đề cùng 500 A La Hán giống như của Xá Lợi Phất trước đây, nhưng không đồng với chúng ta. Vì các Ngài đi theo đường vòng qua ba a tăng kỳ kiếp mới đắc đạo.

Giai đoạn một, các Ngài tu Thanh văn chứng quả vị La hán, ra khỏi nhà lửa tam giới. Ví như giai đoạn chúng ta học xong rời khỏi nhà trường.

Giai đoạn hai, phát tâm bồ đề, tập sự làm việc và đến giai đoạn chính thức hành Bồ tát đạo. Người tu Tiểu thừa phải qua ba a tăng kỳ kiếp dài nhưng dễ hơn chúng ta. Vì chúng ta là người đi tắt, không qua hai giai đoạn trước, tuy nhanh nhưng có phần khó khăn.

Chúng ta đi thẳng vào hạnh Bồ tát, nên cùng một lúc làm hai việc, vừa phá vô minh, vừa chứng Pháp thân. Ví như người vừa làm việc vừa đi học, phải vất vả hơn người chỉ chuyên đi học. Trong khi Thanh văn nội giới hoàn toàn thanh tịnh, phiền não đã dứt sạch, không còn sanh tử luân hồi, trí tuệ đã phát sanh. Hoàn cảnh và các loài không còn chi phối được họ, nên khi hành Bồ tát đạo, thân tâm các Ngài hoàn toàn thanh tịnh.

Tuy nhiên, chúng ta hành đạo nương nhờ công đức kinh và sự hộ niệm của chư Phật, chư Bồ tát mới làm được những việc bất khả tư nghì. Nếu không nương công đức kinhthần lực của chư Phật, chư Bồ tát, chúng ta cũng như người bị Tiểu thừa chỉ trích chưa biết bơi mà muốn cứu người chết đuối.

Mặc dù chưa biết bơi, nhưng người hành Bồ tát đạo, ví như người có thuyền của Phật và Bồ tát cho mượn, có thể đi sang bờ bên kia không nhọc sức. Hành giả thọ trì kinh Pháp Hoa cũng như kinh Di Đà, là những người nguyện nương theo thần lực của chư Phật. Vì phàm phu muốn đi tắt lộ trình Bồ tát, để thành Phật, cần phải nhờ sự hộ niệm che chở của chư Phật và Bồ tát mười phương. Đó cũng chính là hạnh nguyện của các Ngài.

Đức Phật hộ niệm cho hành giả Pháp Hoa sau khi Ngài diệt độ. Vì Ngài biết rõ trong đời mạt pháp, người hung dữ nhiều vô số. Họ không từ chối một thủ đoạn xấu ác nào, gây khó khăn chướng ngại cho hành giả Pháp Hoa trên bước đường tu không ít.

Tuy nhiên, điều kiện chính yếu muốn được Phật hộ niệm, hành giả phải có căn lành. Nghĩa là tâm niệm tốt và việc làm thánh thiện lợi ích của hành giả trên cuộc đời. Thiếu căn lành, không khác chi thiếu ngọn đèn chánh pháp soi sáng, hành giả không thể nào đến với Phật được.

Nhưng căn lành quá nhỏ, trong khi nghiệp ác quá lớn, Đức Phật cũng không thể cứu được. Như câu chuyện anh học trò trên đường đến trường thi, đã cứu một con nhện thoát chết. Khi anh đọa địa ngục vì tạo nhiều tội lỗi hơn là làm phước thiện, đến ngày rằm tháng 7, nương nhờ công đức lực của Ngài Địa Tạng Bồ tát phát nguyện cứu độ bất cứ chúng sanh nào đã có một hành động thiện dù nhỏ bằng cây kim. Anh được con nhện trước kia anh từng cứu sống thòng sợi dây tơ xuống. Anh vội nắm sợi dây để trèo lên và quay lại thấy sau lưng anh bao nhiêu chúng sanh đau khổ khác cũng đang bám theo dây. Anh co chân đạp họ rớt xuống để lên một mình. Thế là sợi dây nhện này bị cắt đứt và anh học trò lại té xuống theo tâm niệm và hành động ích kỷ của mình.

Câu chuyện hàm chứa triết lý của Phật giáo Đại thừa, để chúng ta suy nghĩ cứu người chính là cứu mình. Nhưng khi lòng tham chúng ta quá lớn, có muốn cứu cũng không được.

Hành giả nuôi lớn căn lành, tạo sự liên hệ giữa Phật và chúng ta, bằng cách tịnh hóa tâm mình. Cố gắng giữ gìn tâm tương ưng với Phật thì cầu nguyện mới có kết quả. Hành giả tập trung tâm tư nguyện vọng để duy trì làn sóng liên lạc giữa hành giả và Phật. Đến khi ra khỏi sanh tử mới được an lành.

Nhờ nhân duyên căn lành làm nhịp cầu nối tiếp với Phật, giúp cho hành giả sống trong Tịnh độ hóa thành. Như vậy, mới tiến tu được trong đời ác, mới sử dụng được pháp phương tiện của Phật, mới không lùi bước nản lòng trước những nguyện lớn phải dấn thân.

Nếu đánh mất sự tương ưng với Phật, vì tâm niệmviệc làm của chúng ta hoàn toàn trái với Phật, chúng ta không thể nào tiếp nhận được sự gia bị, thì ta cũng xác xơ như bướm rụng cánh.

Đức Phật dạy ngay khi Ngài tại thế, còn có người oán ghét kinh Pháp Hoa, huống là sau khi Ngài diệt độ. Vì vậy nhân duyên căn lành là điều kiện cần thiết dùng để bổ túc cho năm pháp tu phương tiện của chúng ta ngày nay là thọ trì, đọc, tụng, biên chép, giảng nói.

Tuy chưa phải là Phật, nhưng tác dụng của hành giả giống như Phật. Ví như Đức Phật là đài phát thanh, hành giả có radio nên bắt được làn sóng điện và âm thanh của Phật, làm cho chánh pháp còn mãi trên thế gian, lợi lạc chúng hữu tình.

Thọ ký hiểu theo chúng ta ngày nay là tiên đoán vận mạng con người. Nhưng chúng ta đừng lầm với tiên đoán của thầy bói. Thọ ký của Phật giống như sự bảo nhiệm của giáo sư đối với nghiên cứu sinh. Ông thầy có thực tài nhìn thấy khả năng của học trò và tiên đoán họ sẽ bảo vệ được luận án hay không.

Đức Phật thọ ký cho Thanh văn thành Phật được, vì Ngài thấy tất cả việc đúng như thật. Đức Phậtvị trí cuối đoạn đường đi của chúng ta, mới thọ ký bảo nhiệm được những gì xảy ra trên bước đường đi của chúng ta. Ngài quan sát căn tánh, hành nghiệp, xem thể lực, trí lực, đức hạnh của ta như thế nào mới xác định được tương lai. Ngài dùng Phật nhãn thấy rõ được việc làm của đệ tử trong vô số kiếp tới.

Ngoại trừ Phật nhãn, những sự hiểu biết khác của Thanh văn cho đến Bồ tát đều không thể thọ ký. Vì đó không phải là nhãn quan chính xác rốt ráo, chưa thấy được chư pháp thật tướng. Không thể giải đáp được bài toán đời quá dài của mọi loài từ vô thỉ đến vô chung.

Có năm cách nhìn về con ngườivũ trụ, hay nói chung tất cả các pháp theo thứ bực từ thấp lên cao.

1.- Nhục nhãn : dùng mắt thường con người thấy không xa quá đường chân trời. Lại thêm cái thấy này còn lệ thuộc tâm tình từng người, nên khi thương thấy trái ấu cũng tròn. Nếu thấy trên căn bản tham vọng còn sanh ra vô số sai khác nữa. Vì vậy dùng nhục nhãn để biết thực tế còn không đúng huống gì thấy những việc cao xa.

2.- Thiên nhãn : thường được Nhật gọi là đôi mắt khoa học, vượt hơn sự hiểu biết hạn hẹp thông thường. Dưới mắt khoa học, sự vật thế nào phải thấy đúng như vậy. Thấy được nguyên lý cấu tạo nên sự vật. Ví dụ quan sát con người thấy không phải đàn ông hay đàn bà, nhưng cấu tạo bằng hai thứ vật lýtâm lý. Từ đó chúng ta có khoa học tự nhiên thấy được sinh hoạt của tạo hóa và khoa học xã hội thấy sinh hoạt con người.

Tuy nhiên, cái thấy theo khoa học cần trang bị bằng một số điều kiệnphương tiện. Những phương tiện ta có ngày nay cũng ở tầm mức hữu hạn, cũng chỉ là người mò mẫm trong đám người mù.

3.- Huệ nhãn : là cái thấy bằng trực giác, không chứng minh được. Ví như một người dùng trí hiểu biết về triết học phán đoán sự vật. Do suy tư mà hiểu, không mò mẫm trắc nghiệm để biết.

Đắc được huệ nhãn, người ta quan sát những biến động của vật trong vô hình. Dưới mắt các Ngài, chúng sanh chỉ là giả hợp, là bọt nước trên bể. Vì các Ngài sống với pháp tánh, thấy được chu kỳ thật của chúng trước khi sanh và sau khi chết. Đây là giai đoạn không còn phân tích được, các vị này an trụ trong thiền định, biết được mọi việc xảy ra, thấy được diễn biến của ba đời trước và ba đời sau. Vị A la hán tiêu biểu đạt được huệ nhãn cao nhất là A Na Luật. Ngài thấy tam thiên đại thiên thế giới như thấy trái xoài để trên lòng bàn tay.

Và cái thấy bằng nhục nhãn của A la hán bị Duy Ma chất vấn có phải là thấy bằng cụ thể hóa hay không ? Nếu có hình thành ra vật chất mà thấy sẽ không khác gì ngũ thông của ngoại đạo chỉ thấy được bóng của vật chất, chứ không phải vật chất. Vì vật chất luôn biến đổi không dừng.

Nếu thấy được bản thể của sự vật, không thể nào gọi là thấy. Vì ở lập trường bản thể không sanh diệt quán pháp không sanh diệt, thì vấn đề thấy đâu cần đặt ra.

4.- Pháp nhãn : hay cái nhìn của Bồ tát. Có hai lối kiến giải, một cho rằng Bồ tát do kinh nghiệm hành đạo trong mười phương biết được. Lối kiến giải thứ hai lại ví Bồ tát như nghệ sĩ nhìn đời với cặp mắt nghệ thuật, nên thấy nguy hiểm khổ sở mà vẫn vui, thấy xấu thành tốt vì do tưởng tượng.

Các lối kiến giải trên không đúng. Vì nhục nhãn của loài người bị nghiệp lực chi phối không đồng nhau, lại thêm tam độc tham sân si và thân ngũ uẩn ràng buộc, làm sao phán đoán được pháp nhãn của Bồ tát. Nhục nhãn của chúng ta bị giới hạn bởi định luật thời giankhông gian thì thế giới của chư Bồ tát tất nhiên phải ở ngoài tầm mắt của chúng ta và hạng phàm phu vô trí lại cho đó là tưởng tượng.

Trong các nhãn quan kể trên, pháp nhãn của Bồ tát chính xác hơn cả, nhưng cũng chưa đủ để thọ ký cho người thành Phật.

Hàng A ha hán thực chứng huệ nhãn, biết được quá khứvị lai rồi, Đức Phật mới dạy họ pháp kết hợp giữa CÓ và KHÔNG. Ở giai đoạn thiên nhãn, hành giả chỉ quan sát về phương diện CÓ. Đến giai đoạn huệ nhãn, hành giả thấy trên mặt KHÔNG. Và khi chứng pháp nhãn mới thấy tương quan tương duyên giữa CÓ và KHÔNG. Vì chấp CÓ, chấp KHÔNG đều sai lầm.

Chứng đắc pháp nhãn, hành giả trụ ở Trung đạo đệ nhất nghĩa, biết được tổng hợp các pháp. Đó là lộ trình của Bồ Tát tu để chứng thật tướng. Bấy giờ, hành giả là pháp và pháp là hành giả. Bồ tát Phổ Hiền đưa tâm vào pháp giới thì mọi vật hữu hình vô hình đều biến thành Ngài. Vì vậy, Bồ tát cảm được khổ vui của chúng sanh, vì các Ngài đã thâm nhập vào tâm chúng sanh, nên biết nó một cách chính xác. Chư Bồ tát hoàn toàn tự tại, sắc thân không còn chi phối Ngài được, huống chi là hoàn cảnh. Tuy không còn sanh tử luân hồi, nhưng các Ngài hiện hữu bên cạnh chúng ta chỉ vì nguyện lực hành Bồ tát đạo.

Trên lộ trình tu hành, Bồ tát đem pháp kết hợp với tâm, quan sát, phân tích đến đâu sẽ mở rộng pháp nhãn đến đó. Và cuối cùng, đạt đến hiểu tất cả pháp chính xác, thấy suốt cả ba thời quá khứ, hiện tạivị lai.

Như vậy, lộ trình tu hành của chúng ta có năm chặng đường. Đến giai đoạn cuối cùng, đắc được Phật nhãn, thấy tất cả hiện tượng trong pháp giới một cách chính xác và chuyển được vật một cách tự tại theo ý muốn.

Đức Phật quan sát thấy suốt mọi diễn biến cuộc đời từ vô thỉ đến tận vị lai tế của bốn vị đại đệ tử Ca Diếp, Mục Kiền Liên, Ca Chiên Diên, Tu Bồ Đề. Ngài mới thọ ký cho các vị này được.

Sự thọ ký còn bao hàm sự bảo chứng của bậc Đạo sư toàn năng, toàn trí, có trách nhiệm đối với những đệ tử kề cận tu học với Ngài. Đức Phật thọ ký cho các vị này với điều kiện họ phải đi theo lộ trình thân cận, cúng dường bao nhiêu ức Đức Phật.

Điểm này có nhiều người thường hiểu lầm thân cận cúng dường các Đức Phật nghĩa là ở gần tượng Phật thờ trong chùa và mang hoa trái cúng dường cho Phật tượng.

Thân cận các Đức Phật phải được hiểu là hạnh thân cận hay việc làm của mình gần với Đức Phật. Suy nghĩviệc làm của hành giả lâu ngày gần với Phật, giống Phật mới biến thành Phật sự.

Nhận định rõ như vậy, chúng ta rọi lại kinh điển Đại thừa, xem Đức Phật làm gì mà thành Phật. Từ đó từng bước hành giả làm theo và đến khi thành tựu trọn vẹn, mới thành Phật. Trong kinh Đức Phật thường nhắc rằng đầy đủ tâm đại bi mới thành Phật.

Ngoài điều kiện gần Phật trong suy tư và hành động, hành giả cần cúng dường Phật. Cúng dường Phật không đơn thuần dùng bông trái. Đức Phật dạy thành tựu chúng sanhtối thượng cúng dường. Nghĩa là phát triển cuộc sống mình và người cùng thăng hoa, xã hội cùng an vui tiến bộ, mới thể hiện thực sự ý nghĩa cúng dường.

Như vậy thấu hiểu sự thọ ký của Đức Phật, trở về thực tế của chúng ta, trước tiên phải thể hiện lời Phật dạy trong cuộc sống. Từ năm giới cấm đến tu thập thiện nghiệp, điều chỉnh ba nghiệp thân khẩu ýdũng mãnh tiến theo 37 Trợ đạo phẩm mà Đức Phật vạch ra, chắc chắn mười phương chư Phật sẽ thừa nhận chúng taPhật tử. Và thế giới chúng ta gieo trồng hạt nhân 37 Trợ đạo phẩm sẽ kết thành Tịnh độ trang nghiêm bằng hoa quả của Hiền Thánh.

Thời Đức Phật tại thế, thuộc thời kỳ đồ đồng. Phương tiện đi lại chỉ có cỡi trâu hay đi bộ, đường ngoằn ngoèo, hầm hố gai chông, núi non hiểm trở. Đức Phật mới giới thiệu thế giới lý tưởng bằng như bàn tay, có đường thẳng chạy tám phương, có trồng cây, treo đèn sáng.

Ngày nay nếu đến một thành phố văn minh, chúng ta nhìn về bề mặt của xã hội, thấy gần giống những gì diễn tả trong Phật quốc. Nhưng về phương diện tâm linh thì thua xa vì còn nhiều hố thẳm xấu xa tội lỗi, cần triệt để xây dựng, điều chỉnh nhân tâm.

Trong thế giới của Ngài Ca Diếp được thọ ký, tuy có ma và dân ma, nhưng đều tôn trọng hộ trì chánh pháp. Hình ảnh này thể hiện rõ nét sự khác biệt giữa thế giới Phật và thế giới chúng ta.

Thế giới loài người chỉ mới tốt về vật chất, nhưng mặt tinh thần quan trọng hơn lại chưa được trong sáng. Chúng ta có thể khẳng định văn minh thực sự chỉ tìm thấy được trong thế giới Phật với sự hiện hữu của toàn chúng Bồ tát. Thật vậy, Bồ tát là những người có đầy đủ ba tâm : trực tâm, thâm tâmbồ đề tâm. Nghĩa là người có tâm hồn ngay thẳng, không giả dối, thích xây dựng cho người khác hưởng. Họ thông minh hiểu biết, thấy được nguyên nhân tạo nên vũ trụ, tạo nên hạnh phúc hay khổ đau của con người.

Trong khi thế giới chúng ta được mệnh danh đang ở tột đỉnh của văn minh, nhưng có bao nhiêu người biết sống thành thật. Những tội trạng lừa đảo gian dối, giả mạo đầy rẫy hằng ngày ở khắp nơi. Có bao nhiêu tâm hồn phóng khoáng, vị tha hay chỉ tràn ngập những người thích tranh danh đoạt lợi, ngồi không thụ hưởng. Và số người ngu dốt, kém hiểu biết gây ra tệ nạn tràn lan cũng không ít.

Ngoài ra, nếu cuộc sống con người chỉ nhắm đến thỏa mãn nhu cầu vật chất về ăn mặc, đi lại, nhà ở, giải trí, thì con người ngày nay quả tình đang sống trong cảnh Cực Lạc với hàng loạt kiểu cách tiện nghi mới lạ. Thế nhưng chưa lúc nào như lúc này, nhân loại đang lo sợ một cuộc chiến tranh hủy diệt loài người bằng vũ khí hạt nhân do văn minh khoa học chế tạo. Một phút giây nào đó, ác tâm hiếu sát mù quáng nổi lên, cả trái đất này biến thành tro bụi. Vì thế, tuy văn minh tiến bộ, con người vẫn đầy ắp khổ đau, sống trong băn khoăn, lo sợ, nghi ngờ, thì Tịnh độ hay thế giới Phật, chắc chắn chẳng thể hiện ra.

Khi thọ ký cho Ngài Ca Diếp, Phật dạy ông phải tự phát triển khối óc và bàn tay, không phải chờ người khác làm cho hưởng. Hoàn chỉnh phần tri thứcđạo đức tự thân xong, muốn kiến tạo Tịnh độ, phải chuyển toàn bộ tâm của mọi người, dìu dắt nâng đỡ mọi người cùng đi lên. Mọi người đều phát huy tài năngđức hạnh, Tịnh độ sẽ ở ngay trước mặt.

Trên thực tế, chúng ta thấy rõ từ trước đến nay, đời sống phát triển được nhờ những người giàu lòng hy sinh ở mọi phương diện. Nếu chỉ có những người yếm thế, chúng ta khó phát huy xây dựng.

Hơn nữa, con người tối linh trong muôn loài, không phải muôn đời lập đi lập lại sinh hoạt chừng ấy như con ong cái kiến. Vì chúng ta có đủ điều kiện phát triển trí tuệ, ứng dụng linh hoạt hiểu biết vào cuộc sống, để biến đổi từ phàm phu thành bậc Toàn giác, kiến tạo Tịnh độ.

Đức Phật dạy chỉ có con đường thể hiện Bồ tát hạnh mới dẫn đến quả vị Vô thượng giác và dựng xây thế giới Phật. Đi ngoài lộ trình này, chúng ta chỉ là kẻ mù lang thang tìm hoa đốm trong hư không.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29871)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27128)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21747)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22218)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23597)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20394)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20038)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21927)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24719)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18956)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24697)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30948)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23956)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27748)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26494)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21281)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23198)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38087)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18796)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18420)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19924)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19013)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23126)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23862)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22774)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22889)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29554)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20621)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18684)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15827)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18821)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19634)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20137)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19927)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18101)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22902)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34147)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16405)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16903)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39181)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26022)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20077)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18811)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24032)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29085)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22895)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30917)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20995)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26836)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20652)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26229)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23308)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19810)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24648)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29990)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20201)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20390)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15130)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15819)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23845)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant