Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 18 Tùy Hỷ Công Đức

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6406)
Phẩm 18 Tùy Hỷ Công Đức

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 18

TÙY HỶ CÔNG ĐỨC

I. LƯỢC VĂN KINH

Bấy giờ Bồ tát Di Lặc bạch Phật nếu có người nào nghe kinh Pháp Hoatùy hỷ thì người ấy được bao nhiêu phước đức ? Phật bảo Bồ Tát Di Lặc : “Nếu có người bố thí những thứ cần dùng và tất cả của báu cho vô lượng chúng sanh trong vô số thế giới suốt 80 năm. Sau đó vị thí chủ lại dìu dắt chúng sanh ấy được đắc quả A la hán. Công đức của vị thí chủ ấy không bằng một trong trăm ngàn muôn ức phần công đức của người thứ 50 nghe kinh Pháp Hoatùy hỷ.

“Nếu người nghe kinh Pháp Hoa dù chỉ nghe trong chốc lát, người ấy sẽ có công đức. Nhờ đó tái sanh vào cảnh giàu sang, sau lại sanh lên thiên cung.

“Nếu người khuyên người khác đến nghe kinh hoặc chia chỗ cho ngồi thì khi đổi thân sẽ được chỗ ngồi của Đế Thích Phạm vương hay Chuyển luân thánh vương.

“Nếu người khuyến khích người khác đi nghe kinh Pháp Hoa và người được khuyên nhận lời đến nghe thì người khuyến khích được công đức. Khi chuyển thân sanh cùng một chỗ với Đà La Ni Bồ tát, căn tánh thông lợi, được tướng phước trang nghiêm.

“A Dật Đa, ông hãy thử nghĩ xem khuyên một người đi nghe phápcông đức còn vô lượng. Huống là một lòng nghe pháp, đọc tụng, giải thích, tu hành đúng như kinh Pháp Hoa”.

II. GIẢI THÍCH

Sau khi Phật Niết bàn, không có sanh thân Phật trên cuộc đời, lại thêm chúng ta vướng mắc trong ngũ ấm thân quá nặng nề, nên không thể thấy được Phật Pháp thân thường trú vĩnh hằng. Ta mãi buông lung theo đường sanh tử lấy trái làm phải, cho phải là trái. Với nghiệp báo sâu dầy như vậy làm thế nào tin hiểu được bốn việc làm của Bồ tát tùng địa dũng xuất.

Vì vậy, Phật khởi lòng từ đối với những hành giả Pháp Hoa đời sau không trực nhận được pháp âm của Phật thường trú. Ngài mới dạy pháp tu “ngũ phẩm diệt hậu” nhằm mục tiêu giúp chúng sanh đời sau nương theo năm phần này phát hiện pháp tứ tín của Bồ tát tùng địa dũng xuất.

1 – Nhất niệm tùy hỷ

Mở đầu phẩm này, Phật trả lời Ngài Di Lặc Bồ tát rằng nếu có một người nghe kinh Pháp Hoa sanh tâm tùy hỷ, rồi nói lại cho người khác nghe và cứ như vậy cho đến người thứ 50. Công đức của người thứ 50 nghe kinh Pháp Hoa đem so với đại thí chủ bố thí cho tất cả chúng sanh theo ý muốn chúng, trong bốn trăm muôn ức vô số thế giới trải 80 năm. Khi họ sắp chết, vị đại thí chủ mới dạy họ tu hành làm cho đắc quả La hán.

Nhưng Phật dạy công đức của vị đại thí chủ so với công đức người thứ 50 tùy hỷ kinh Pháp Hoa nhỏ hơn vô số. Công đức của người thứ 50 còn như vậy, huống chi là người trực tiếp nghe kinh Pháp Hoa, gợi cho chúng ta suy nghĩ. Chắc chắn chúng ta đều nghĩ rằng nuôi và xây dựng người như vị đại thí chủ, thực quá tốt. Tuy nhiên, suy nghĩ thêm lời Phật dạy sẽ không khỏi hốt hoảng, khi nhận ra nuôi người tới 80 tuổi chỉ nuôi được mạng căn hữu hình hữu hoại thôi. Để rồi họ cũng tàn tạ dần theo thời gian, kết quả ta cũng phải đưa họ xuống mồ.

Nuôi người theo mô hình cuối cùng dẫn tất cả vào nằm yên trong nấm mồ, chỉ là thực hành phước báo nhân thiên. Pháp này thuộc giai đoạn đầu là tu thập thiện nghiệp đạo, hưởng phước lành trên nhân gian, giúp đỡ tất cả mọi người, sau cùng cũng chết.

Chúng ta nhận chân được tâm hoàn toàn thanh thản của Đức Phật. Ngài tội nghiệp chúng sanh suốt đời mãi lăng xăng, lo những gì không đáng bận tâm, những cái không đáng lo như đại thí chủ nuôi chúng sanh trải 80 năm, nó cũng chết. Đứng ở sanh diệt tướng mà làm thì không có gì có thể tồn tại trên thế gian. Dưới cái nhìn chính xác của Phật, Ngài xem việc thỏa mãn nhu cầu vật chất cho chúng sanh không đáng kể. Ngài gấp rút lo cho tất cả chúng sanh ra khỏi sanh tử luân hồi, không còn bị quả báo ràng buộc.

Khi Phật tại thế, Ngài để tâm xây dựng giáo đoàn đưa mọi người tới quả vị A la hán, tâm không còn chỗ khổ não. Tuy nhiên, điều quan trọng là Phật giáo hóa không chỉ giới hạn dừng lại ở điểm đưa đến quả Niết bàn u tịch của A la hán. Đạt được thành quả Niết Bàn rồi hay nói khác, trở thành A la hán không chết trong nhà lửa sanh tử, mà lại tiếp tục sống ngơ ngác trên cuộc đời thì cũng chẳng lợi ích gì. Đó không phải là mục tiêu của bậc Toàn giác. Vì vậy mô hình Phật dạy hành giả Pháp Hoa phải thể hiện, dù còn trong sanh tử nhưng chuyển sanh tử thành Niết bàn, đây chính là trọng tâm của kinh Pháp Hoa.

Công đức của người tùy hỷ không thể nghĩ bàn. Nói ra nghe đơn giản, nhưng thực tế chúng ta xét lại xem tâm tùy hỷ của chúng ta có mang lại kết quả lớn lao như kinh dạy hay không. Nếu không, hành giả lắng lòng nghĩ xem chúng ta đã thực sự tùy hỷ kinh chưa hay trái lại phỉ báng kinh mà cứ nhận lầmtùy hỷ.

Nếu đã thực sự tùy hỷ rồi, nên đặt tâm tùy hỷ của mình ở đâu ? Cần hiểu rõ những vấn đề này để tu hạnh tùy hỷ cho đúng chánh pháp. Nếu không, chúng ta hiểu lầm kinh Pháp Hoa, tu sai chẳng những không được chút phần công đức nào, lại phải thọ quả báo. Thật vậy, từ khi Phật vào Niết bàn đến nay, giáo lý Ngài lưu truyền hơn 25 thế kỷ. Một sự truyền thừa mang khoảng cách quá xa, như vậy chúng ta không phải là người thứ 50 tùy hỷ kinh, nên chúng ta dễ hiểu lầm về Phật, về lời dạy của Ngài.

Trước nhất, khởi đầu muốn tu Pháp Hoa, hành giả phải có niệm tâm tùy hỷ, bằng cách thân cận những bậc chân tu hay vị Thầy chỉ đạo. Nhờ cảm đức của thầy, nghiệp hành giả không sanh. Pháp này cũng ghi rõ trong phẩm Trì thứ 13 rằng các Bồ tát nhờ thương Phật mà nhịn chịu được mọi khó khăn trong đời ngũ trược ác thế.

Ảnh hưởng đạo đức của các bậc cao Tăng hay Thầy khiến tâm ta thanh tịnh lần. Từ chỗ này dần dần hành giả mới sanh tâm tùy hỷ. Nhớ lời thầy dạy, nhớ việc làm thánh thiện của chư Phật, Bồ tát và Thầy, hành giả đã thay tâm phiền não của mình bằng tâm Phật, tâm Bồ tát, tâm Thầy. Tuy nhiên, chưa phải là tâm tùy hỷ đúng nghĩa theo Phật thừa. Hành giả chỉ tạm mượn lực của Phật, Bồ tát và Thầy để thanh tịnh hóa tâm mình ở bước khởi đầu mà thôi. Hoặc ta nghe giảng kinh liền khởi lên tín tâm. Hành giả đã nương với pháp sưtùy hỷ với pháp sư, không phải tùy hỷ với đạo nhất thừa.

Kinh Pháp Hoa dạy chúng ta tu phát xuất từ Phật tánh và tu đến thành Phật vĩnh hằng. Vì thế, tùy hỷ với kinh Pháp Hoa nghĩa là tùy hỷ bốn điều quan trọng : nhân, hạnh, quả, đức của Phật.

Nhân hạnh của Phật là tất cả những việc làm sáng suốt, thuần thiện của Ngài. Từ phát tâm khởi tu trải qua vô số kiếp hành đạo Bồ tát, Ngài không từ bỏ một việc khó khăn nào ở thế gian, đầy đủ hạnh Bồ tát, mới kết thành quả đức Toàn giác. Bằng quả Toàn giác, Ngài thấy rõ tất cả chúng sanh ở bề mặt và bề trái. Như Lai thấy đúng như thật của sự vật qua thập như thị nên Ngài giải quyết mọi vấn đềnguyên nhân. Đức Phật không muốn làm người xét xử trên quả.

Cảm nhận sâu sắc pháp này, dưới nhãn quan của tôi, những gì con người quan tâm coi như thực tế, tôi lại thấy chỉ là ảo giác. Đối với tôi, sức sống tiềm ẩn bên trong được nuôi dưỡng thế nào để đạo pháp sinh tồn, thường hằng mới quan trọng. Còn con người hiện hữu nhiều hay ít không có nghĩa gì.

Trên bước đường tu tập, hành giả chỉ điều chỉnh nhân bên trong tốt, tự động bên ngoài tốt theo. Phật dạy rằng Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả. Chúng sanh lo mãi sửa đổi quả, nhưng kết thành quả rồi thì không thể điều chỉnh được nữa. Và quả này không thể thoát ra ngoài quy luật của quá trình sanh già bệnh chết chi phối con người muôn đời. Muốn xây dựng con người tốt phải xây dựng từ nhân, nghĩa là giáo dục từ lúc nhỏ. Đạo đức ngày nay mà tôi có được là nhờ các bậc cha anh đã biết xây dựng đào tạo tôi.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là tầm tri kiến của Phật thấu suốt qua hai dạng thể và dụng. Dụng là những gì hiện trên cuộc đời và thể là nguyên nhân cấu tạo con ngườithế giới con người. Tầm tri kiến hay mức thấy diễn tả trong kinh Pháp Hoa rất trung thực. Nhưng vì chúng ta cách chân lý quá xa, nên nghĩ là không thực.

Hành giả thọ trì Pháp Hoa tùy hỷ với Phật là tùy hỷ với tu nhân cửu viễn của Phật Thích Ca Mâu Nitùy hỷ với thành Phật cửu viễn của Đức Thích Ca. Như vậy, công đức mới lớn lao không suy lường được. Thật vậy, Đức Phật hiện thân trên cuộc đời nhằm mục tiêu duy nhất chỉ chúng ta thấy đạo Nhất thừa. Pháp Nhất thừa phát xuất từ Phật tánhnhất niệm tâm tùy hỷ của hành giả cũng khởi lên từ Phật tánhkết hợp được với các pháp, trở thành tâm pháp hay Pháp thân Bồ tát.

Đến trạng thái tu hành dưới dạng Bồ tát Pháp thân, chắc chắn so với Bồ tát ứng thân, thì trăm ngàn muôn ức phần không bằng; vì đã so sánh sanh diệt với vĩnh cửu. Bồ tát Pháp thân thâm nhập vũ trụ bao la, trong khi Bồ tát ứng thân giới hạn trong thân ngũ uẩn.

Đức Phật Thích Ca trải qua 40 năm đã dìu dắt tất cả đến gần kinh Pháp Hoa, mở tri kiến Phật cho chúng hội. Bấy giờ, họ phát tâm Bồ đề từ Phật tánh mới tu dưới dạng Bồ tát tâm, nên phát sanh công đức không cùng tận. Tất cả Thanh văn theo Phật nghe pháp từ Lộc Uyển đến Kỳ Viên, Trúc Lâm, Linh Sơn cũng chỉ nhằm phát hiện niệm tâm này.

Xá Lợi Phất theo Phật suốt quá trình dài xa, từng bước tu tập nhận ra được các pháp mà Phật nói trước kia chỉ là trợ duyên để mở được niệm tâm thanh tịnh này. Và Ngài khởi được niệm tâm tùy hỷ với Như Lai Thọ Lượng, tùy hỷ với Pháp thân thường trú rồi thì Ngài vô cùng xúc động, nên diễn tả tâm trạng bằng bài kệ :

“… Ơn lớn của Thế Tôn

Đem việc ít có này,

Thương xót dạy bảo cho,

Làm lợi ích chúng con,

Trải vô lượng ức kiếp,

Ai có thể đền được,

Tay lẫn chân cung cấp,

Đầu đảnh kể cung kính,

Tất cả đều cúng dường,

Đều không thể đền được.

Hoặc dùng đầu đội Phật,

Hai vai cùng cõng vác,

Trong kiếp số hằng sa,

Cũng chẳng đền đáp được”.

Vua Trần Thái Tôn cũng cảm nhận sâu sắc pháp này, phát hiện được niệm tâm tùy hỷ với Phật cửu viễn thật thành, phát lên câu nguyện : “Cảm đức từ bi để nghìn kiếp nguyền cho thân cận. Đội ơn tế độ, nát muôn thân, thề chịu đắng cay”.

Cảm đức từ bi của Phật để lại ngũ phẩm cho chúng ta tu hành. Đội ơn tế độnếu không nhờ ơn giáo hóa của đấng Từ phụ, chúng ta mãi mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Nhận được thâm ơn vô cùng quý giá nên nguyện nát muôn thân, chết thân này thọ thân khác. Dù phải đổi thay vô số thân như vậy cũng nhất định lãnh chịu, không từ chối.

Vua sống trong cảnh đế vương, chiến thắng quân Nguyên, lại sẵn sàng bỏ ngôi đi tu. Cảm đức từ bi sống được với bao la vô tận của Phật mới xả bỏ được ngũ dục thế gian, hành đạo Bồ tát. Ngài nguyện đời đời kiếp kiếp thân cận thường trú Pháp thân, không còn bị trói buộc trong vòng sanh tử luân hồi.

Riêng chúng ta tự xét lại góc độ tùy hỷ của mình, có được phần nào như Ngài Xá Lợi Phất, như vua Trần Thái Tôn hay chưa. Còn đứng ở tư thế xã hội tùy hỷ, phước đức nếu có được, cũng rất bé nhỏ trong giới hạn địa vị phàm phu, vì chưa nắm được quy luật tất yếu. Tùy hỷ với Phật mới tiếp cận Ngài được.

Từ tâm tùy hỷ với công hạnh của Phật, hành giả cũng bằng lòng làm theo Phật, theo Bồ tát. Thấy việc nào mà kinh ghi chư Phật và Bồ Tát làm, hành giả cố gắng làm theo trong tư thế không mong cầu. Tuy không mong cầu nhưng việc làm tốt của hành giả đã thành tựu, là hạt giống Bồ đề hành giả đã gieo xuống. Nếu tiếp tục phát huy trí tuệđạo đức của mình, quả báo tốt đến tự nhiên, không cần tìm. Việc khó biến thành dễ, không còn chống trái chướng ngại trên bước đường hành đạo.

Kinh ghi rõ hành giả thành tựu niệm tâm tùy hỷ, công đức của họ hoàn toàn đổi khác. Hảo tướng hiện ra : mũi cao, mày dài, mặt sáng…, tất cả tướng Phật đều trang nghiêm thân hành giả khiến chúng sanh ưa thích. Từ bên trong lưu xuất, hiện ra trăm tướng phước, nên chúng sanh trong sáu đường nghĩ gì, tâm hành giả liền đáp ứng đầy đủ.

2 – Đọc tụng

Sau khi Phật Niết bàn, muốn tu Pháp Hoa, niệm tâm này bắt buộc phải có bằng cách đọc tụng kinh để cảm nhận sáng suốt, thánh thiện vô song của Phật. Sự liên hệ sâu xa với Phật tác động mạnh vào tâm hành giả. Nhờ đó hiểu lời Phật dạy, đúng như pháp tu hành, thể hiện hạnh Phật vào lời nói, suy tư và hành động của hành giả niệm niệm tương tục không gián đoạn.

Đọc tụng kinh, trầm mình trong giáo lý Phật, suy cứu áo nghĩa hết lòng như vậy, tất cả bệnh thế gian được chữa khỏi, huệ mạng hành giả hiện ra, bắt gặp và tùy hỷ được với Phật thường trú.

3 – Giảng nói

Hành giả Pháp Hoa hiểu nghĩa lý của kinh, đúng như pháp tu hành. Không cần nói nhiều, nhưng vì ba nghiệp hoàn toàn thanh tịnh, thể hiện qua cuộc sống giải thoát đạo đức; người nhìn thấy, liền phát tâm hết phiền não. Thân khẩu ý đều chuyển pháp luân đúng chánh pháp, chúng sanh thấy, nghe, tin theo được lợi lạc. Tuy chưa làm gì nhưng công đức vẫn sanh ra, khác với trước khi hành giả có niệm tùy hỷ.

4 – Kiêm hành lục độ

Kiêm hành có nghĩa là phụ, những pháp phụ cho chúng sanh đời sau để chúng ta dễ tu hành, dễ liên hệ với Pháp thân thường trú. Hành giả vừa thọ trì kinh vừa tùy cơ duyên tu sáu ba la mật : bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ.

Khi đạt được niệm tâm tùy hỷ thanh tịnh, thấy Phật Pháp thân thường trú rồi, hành giả thực hành lại sáu pháp ba la mật. Bấy giờ, sáu pháp ba la mật này phát xuất từ căn bản kinh Pháp Hoa, nghĩa là từ trên Quả môn, nên có tác dụng không thể nghĩ bàn.

Lấy một thí dụ để chúng ta hình dung được pháp này. Mở đầu pháp bố thí, hành giả đem tiền của cho người, truyền đạt hiểu biết cho người và che chở cho người thoát khỏi khó khăn (tài thí, pháp thí, vô úy thí). Làm được như vậy sẽ có công đức.

Tuy nhiên, khi hành giả chưa thấy thường trú Pháp thân, tức chưa thấy chân lý, hành giảlòng tốt muốn giúp người. Nếu trình độ tri thức chưa đủ thì sự giúp đỡ rất giới hạn. Vì vậy, hành giả không vội làm việc đó, nhưng lo nỗ lực phát triển tri thức đến độ cao, thấy được chân lý hay Pháp thân thường trú. Tạm ví như trong lãnh vực khoa học kỹ thuật, hành giả phát minh ra công thức chế tạo máy thay cho sức lao động tay chân. Lúc ấy, sáng kiến của hành giả giúp ích cho nhiều người, so với giúp đỡ bằng tay chân ban đầu, lớn gấp vạn lần.

Đức Phật ngại chúng ta hiểu lầm, đạt đến trình độ tu chứng cao nhất rồi nhập Niết bàn, không chịu dấn thân. Giống như người học giỏi, khoanh tay ngồi yên cũng chẳng lợi ích gì. Hoặc dùng tài giỏi của mình giết hại người, lại càng nguy hiểm hơn. Đức Phật dạy hành giả Pháp Hoa khi khởi được tâm tốt, hãy tạm để yên tâm tốt này.

Điều quan trọng phải nắm bắt được chân lý, thấy đúng như thật, rồi trở lại cuộc đời, hành sáu pháp ba la mật một cách nhẹ nhàng đơn giản như Đức Phật Thích Ca đã làm, mà công đức thật vô lượng. Tuy việc làm bên ngoài thấy bình thường lại mang đến tác dụng mãnh liệt, duy trì mạng mạch Phật giáo khắp toàn cầu hơn 25 thế kỷ. Bằng tri thức phàm phu chúng ta không thể suy lường được.

5 – Chánh hành Lục độ

Mỗi lúc hành giả tu một hạnh khác nhau, đến ngày nào đó, sáu pháp ba la mật tự nhiên hỗ tương thành tựu.

Hành giả Pháp Hoa đời sau phát tâm Bồ đề, tu pháp Nhất thừa, uống được lương dược ngũ phẩm này, sẽ đi thẳng về Thường Tịch Quang Tịnh độ, diện kiến đảnh lễ Đức Phật Pháp thân thường trú.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31319)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26211)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27504)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27877)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26692)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31190)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20245)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22884)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30019)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21542)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20219)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22627)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20736)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30272)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28755)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34694)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44192)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35485)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22518)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21339)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20658)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24743)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37876)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19014)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19305)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21784)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20852)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35083)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28798)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32588)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28909)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43112)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34911)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43884)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37851)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21314)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43005)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48994)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39809)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53766)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36806)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40781)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49719)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47292)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27675)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27012)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27213)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24062)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20831)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22446)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25087)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25817)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22931)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22459)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21737)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23309)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21151)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant