Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 22 Đà La Ni

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6566)
Phẩm 22 Đà La Ni

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 22

ĐÀ LA NI

 

I. LƯỢC VĂN KINH

Lúc bấy giờ Bồ tát Dược Vương chắp tay bạch Phật rằng nếu có người thọ trì kinh Pháp Hoa hoặc đọc tụng, thông hiểu, biên chép, họ được bao nhiêu công đức. Đức Phật dạy nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa, đúng như pháp tu hành, dù chỉ là một bài kệ bốn câu của kinh này, công đức của họ nhiều hơn công đức của người cúng dường 800 muôn ức hằng hà sa Phật.

Lúc đó, Bồ tát Dược Vương bạch Phật Ngài sẽ cho người nói Pháp Hoa thần chú để giữ gìn họ, thần chú này là của 62 ức hằng hà sa Phật nói. Ai xâm hủy vị Pháp sư này là xâm hủy các Đức Phật. Sau khi Bồ tát Dược Vương đọc chú Đà la ni, Phật khen ngợi Dược Vương Bồ tátthương xót, ủng hộ vị Pháp sư mà nói thần chú, ông giúp ích rất nhiều cho chúng sanh.

Tiếp theo Bồ Tát Dũng Thí bạch Phật xin nói Đà La Ni để ủng hộ người đọc tụng, thọ trì Kinh Pháp Hoa. Được chú này, Pháp Sư sẽ không bị Dạ Xoa, La Sát, ngạ quỷ v.v… rình tìm chỗ dở. Thần chú này của hằng hà sa Phật nói, ai xâm phạm các Pháp Sưxâm phạm các Đức Phật.

Kế đến, Tỳ Sa Môn Thiên vương bạch Phật Ngài cũng nói chú Đà La Ni ủng hộ Pháp Sư và xin ủng hộ người trì kinh, giúp họ thoát khỏi tai nạn trong khoảng 100 do tuần. Và Trì Quốc Thiên vương cùng với vô số Càn Thát Bà ở trong pháp hội cũng chắp tay bạch Phật xin dùng thần chú Đà La Ni ủng hộ người trì Kinh Pháp Hoa. Thần chú này của 42 ức Phật nói, ai xâm phạm Pháp Sư là xâm hủy các Đức Phật.

Sau cùng 10 quỷ La Sát đồng bạch Phật rằng : họ cũng muốn ủng hộ và trừ sự khổ hoạn cho người thọ trì Kinh Pháp Hoa. Nếu có người rình tìm chỗ dở của Pháp Sư liền khiến cho họ không thấy. Đức Phật ngợi khen công đức của La Sát Nữ.

Lúc Phật nói phẩm Đà La Ni, sáu muôn tám ngàn người được Vô Sanh Pháp Nhẫn.

II. GIẢI THÍCH

Bản kinh Pháp Hoa của Ngài Cưu Ma La Thập dịch đặt phần chúc lụy ở phẩm 22 và phẩm Đà La Ni thuộc phẩm thứ 26. Tuy nhiên, theo bản Chánh Pháp Hoa kinh của Ngài Trúc Pháp Hộ dịch thời nhà Tấn, bản Phạn ngữ Népal, bản Pháp HoaƯu Điền cùng bản Pháp Hoa ở Kashmir, cả bốn bản này đều đặt phẩm Chúc lụy ở phẩm 28 cuối kinh và phẩm 22 là phẩm Đà La Ni.

Có thể bản kinh Pháp HoaNgài Cưu Ma La Thập mang từ Ấn Độ về Kucha (hay Quy Tư, ngày nay là Liên Xô) và từ Kucha mang sang Trung Quốc, vì đường xa và phương tiện di chuyển khó khăn thô sơ ở thời đó, nên dễ bị xảy ra những sơ suất làm đảo lộn thứ tự, nếu đem so với các bản kinh Pháp Hoa khác được mang trực tiếp từ Ấn Độ đi thẳng sang Trung Hoa.

Theo tôi, đặt thứ tự phẩm 21 Như Lai Thần Lực, 22 Đà La Ni, 23 Dược Vương, 24 Diệu Âm, 25 Phổ Môn, 26 Diệu Trang Nghiêm Bổn Sự, 27 Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát, 28 Chúc Lụy như trong đa số các bản kinh Pháp Hoa mà bản Chánh Pháp Hoa kinh của Ngài Trúc Pháp Hộ tiêu biểu, sẽ hợp lý hơn. Vì lý giải ý nghĩa kinh theo thứ tự này sẽ liên tục ăn khớp hơn.

Thật vậy, Phật nói kinh Pháp Hoacuối cùng phú chúc cho các Bồ tát giữ gìn hoằng truyền là điều tất yếu. Nếu Phật đã chúc lụy xong, tức pháp hội tan rồi, tại sao Ngài nói một loạt sáu phẩm sau kế tiếp như bản của Ngài Cưu Ma La Thập đã ghi. Chúng ta phải lý giải ý nghĩa này như thế nào ?

Ngoài ra, từ phẩm Như Lai Thần Lực, Phật hiển bày thần lực phú chúc pháp chân thật cho Bồ tát tùng địa dũng xuất ở mặt siêu hình giữ gìn. Đứng ở góc độ siêu hình cao nhất, tương ứng với pháp của Phật Oai Âm Vương, mà đại chúng không thể nắm bắt được gợi cho Bồ tát Dược Vương khởi lên ý nghĩ đưa thần lực Như Lai trở về thực tế cho chúng hội hiểu được. Nói cách khác, Dược Vương cụ thể hóa pháp chân thật của Như Lai phú chúc cho Bồ tát tùng địa dũng xuất bằng ngôn ngữ mà các Đức Phật sử dụng gọi là mật ngữ hay Đà la ni hoặc thần chú. Đó là ý nghĩa của phẩm Đà la ni nối liền với phẩm Như Lai thần lực.

Sự kiện Dược Vương Bồ tát, Dũng Thí Bồ tát, Tỳ Sa Môn Thiên vương, Trì Quốc Thiên vương cho đến La sát nữ cũng cho thần chú ủng hộ người trì kinh Pháp Hoa, làm cho chúng hội nghi ngờTú Vương Hoa Bồ tát đại diện xin Phật giải đáp. Phật trả lời chúng hội nguyên nhân vì sao các vị này có thể sử dụng được thần chú của các Đức Phật, bằng cách kể lại tiền thân của Bồ tát Dược Vương, Bồ tát Diệu Âm tu hành như thế nào để chuyển mạch từ Đà la ni sang phẩm 23 Dược Vương Bồ tát bổn sự, phẩm 24 Diệu Âm Bồ tát kế tiếp.

Qua phần trình bày sơ lược trên, chúng tôi đã đơn cử vài nét về ý nghĩa của thứ tự sắp xếp phẩm Như Lai thần lực đến phẩm Đà la ni, Dược Vương, Diệu Âm v.v… theo bản Chánh Pháp Hoa kinh của Ngài Trúc Pháp Hộ.

Trở lại vấn đề ý nghĩa của Đà la ni hay thần chú, theo tôi, đây là việc rất quan trọng đối với người tu hành, không thể trình bày bằng ngôn ngữ, lý luận suông để hiểu, mà phải thể hiện bằng việc làm và sở đắc của mình. Riêng bản thân tôi chưa chứng đắc, nên không biết cách nào để diễn tả mật ngữ. Người nào chứng được pháp Đà la ni mới hiểu. Và việc truyền trao Đà la ni cho người khác không đơn giản. Tùy mức độ tu hành cảm được sự vi diệu và có tác dụng khác nhau. Vì vậy, những gì tôi trình bày ở đây chỉ là mượn ngôn ngữ để diễn tả cảm nhận của mình trên bước đường tu hành mà thôi.

Đà la ni nghĩa là tổng trì hay thủ hộcông năng giữ gìn được tất cả công đức lành của chúng ta. Hành giả Pháp Hoa trên lộ trình tiến tu không lo tạo công đức nhiều, nhưng vấn đề chính yếu là cần giữ gìn công đức đã tu tạo làm hạt nhân tích lũy cho sinh mạng tu hành đời sau, không để cho mất.

Trên con đường đến bảo sở, chúng ta tạo được công đức đã khó, mà giữ không cho mất càng khó hơn. Thông thường chúng ta hay vấp phải sai lầm, chỉ lo tạo mà không chịu lo giữ gìn. Tuy nhiên, công đức của hành giả Pháp Hoa thuộc về vô lậu, chúng ta không biết nó ở đâu, thì làm thế nào giữ gìn. Chính vì nhìn thấy khó khăn này, các Bồ tát lớn thành xong Vô thượng đẳng giác thương nhân gian sanh lại, tạo điều kiện giúp hành giả giữ gìn công đức. Trong số các Bồ tát này có Bồ tát Dược VươngTa bà dưới dạng vô hình, phát nguyện thủ hộ công đức lành cho chúng ta. Bồ tát Dược Vương tiêu biểu cho Bồ tát từ chơn tánh trở ra hiện tượng, mới hiểu thần lực của Như Lai, hiểu kinh Pháp Hoa không bằng ngôn ngữ. Ngài trực nhận được pháp chân thật của Phật phú chúc cho các Bồ tát tùng địa dũng xuất, mới phát nguyện cho chú Đà la ni thủ hộ người trì kinh Pháp Hoa. Thần chú này cũng là pháp bí yếu của sáu mươi hai ức hằng hà sa Đức Phật.

Đà la ni hay thần chú là một loại tín hiệu của chư Phật mà Bồ tát lớn chứng được, còn chúng sanh hoàn toàn tuyệt phần. Những người không có niềm tin tôn giáo hoặc ở trình độ thấp xem đây là huyền thoại. Tuy nhiên, các bác học trên thế giới chuyên nghiên cứu về Đà la ni xác định rằng có những ngôn ngữ, tín hiệu của thế giới tu chứngloài người không biết được nhưng nó có tác dụng.

Ngày nay, qua kinh nghiệm khoa học, chúng ta có thể tạm hiểu được ngôn ngữ của thần chú hay Đà la ni ví như đài thiên văn bắt được các tín hiệu từ những hành tinh khác tới địa cầu, nhưng chúng ta không thể hiểu được, giải được. Hoặc tuy cùng ở trong thế giới loài người, dù ta có bắt được tín hiệu của Liên Xô đánh đi, ta vẫn chẳng hiểu gì nếu chúng ta chưa hề biết giải mã. Huống gì Đà la niPhật ngữ hay pháp ngữ, không phải ngôn ngữ của loài người.

Nếu không nhờ thần lực thủ hộ của Bồ tát, hành giả khó vượt qua được những chướng ngại giăng đầy trên cuộc đời. Bồ tát Dược Vương dạy hành giả trì tụng thủ hộ thần chú của Ngài, tà ma ngoại đạo sẽ không xâm hại được. Chẳng những khuấy phá của ác ma bên ngoài bị Bồ tát Dược Vương chận đứng, mà cả nghiệp ác từ bao đời trong thâm tâm hành giả cũng không bộc phát được. Thù trong giặc ngoài đều bị thần chú Bồ tát phá tan, để bảo quản công đức lành của hành giả.

Đà la nicông năng trấn át nghiệp bên trong là vấn đề quan trọng. Vì giặc bên ngoài có ác độc khuấy nhiễu thế nào, tâm hành giả vẫn bình ổn. Nhờ vậy chúng ta mới giữ gìn được công đức lành đã dày công tu tạo. Vì vậy thủ hộ này là thủ hộ từ nội tâm, giúp chúng ta bình tĩnh, sáng suốt đối phó với hoàn cảnh khó khăn bên ngoài.

Thủ hộ của Dược Vương Bồ tát được Phật xác định là của hằng hà sa Phật sử dụng, nên ai xâm phạm người trì chú Dược Vương, coi như xâm phạm các Đức Phật. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý trên thực tế, có nhiều người siêng năng trì chú, nhưng tại sao khó khăn vẫn đến với họ.

Thần chúmật ngữ, là tín hiệu mà Phật truyền trao cho Bồ tát, cho người trì kinh Pháp Hoa để giữ gìn, bảo vệ người trì kinh Pháp Hoa, không phải cho phàm phu. Như vậy muốn được Đà la ni hộ trì không đơn giản, vì hành giả phải hội đủ tư cách của người trì kinh Pháp Hoa quy định trong phẩm Pháp sư. Đó là người giữ gìn được pháp Phật trong thân tâm, nên thân tâm hành giả biến thành thân tâm Phật và việc làm của hành giả phải là việc làm của Phật.

Theo tôi, muốn trì chú có kết quả phải đứng ở dạng Phật thừa để trì, chỉ có thể nghiệm trì chú bằng bản tâm thanh tịnh mới tương ứng với bản tâm thanh tịnh của chư Phật mười phương và có hiệu lực. Ngược lại, trì chútâm hành giả còn nhiều ham muốn, nhiều giao động, thuộc về vọng tâm, không phải Phật tâm. Như vậy, sử dụng Phật ngữ với tâm tham lam, độc ác, giao động sẽ gây tác hại nhiều hơn.

Trì dưới dạng chơn tâm hay trở về bản tâm thanh tịnh, hành giả thường có cảm nghĩ trên cuộc đời không có gì đáng cho chúng ta quan tâm sợ hãi. Hành giả an trụ pháp KHÔNG của chư Phật mà từ đó phát lên mật ngữ hay Đà la ni. Bấy giờ giặc phiền não bên trong ngũ ấm thân và ác ma bên ngoài thuộc ngũ ấm thế gian, cả hai đều không tác động gì đến chơn tâm hành giả. Tâm hành giả đang tương ưng cùng mười phương Phật, mới trực nhận sự hộ niệm của các Ngài. Hành giả sống dưới dạng này, tà ma ngoại đạo không tác hại được, thể hiện mẫu người trì chú dưới dạng Bồ tát. Và Bồ tát Dược Vương trao cho hành giả thần chú ở dạng bản thể vậy.

Thần chú Dược Vương linh nghiệm, nhưng khó hành trì cho có kết quả. Nếu không trì đúng pháp, hành giả không bắt gặp được mật ngữ của Phật. Chúng ta đừng lầm thần chú của Dược Vương Bồ tát với thần chú của Ấn Độ giáo hay của phù thủy.

Thần chú hay Đà la nitác dụng khi tâm hành giả dứt sạch mọi tham vọng xấu ác trên cuộc đời. Trên bước đường tu, từng phần chứng được pháp Đà la ni của Phật, tâm trí hành giả theo đó chuyển đổi; tuy sống bình thường nhưng làm được nhiều việc, khác với trước kia muốn làm việc lớn mà việc nhỏ nhất cũng không làm nổi. Tâm tham càng lớn, càng khổ với sự thất thoát của giặc năm nhà. Khi nhận được Phật lực gia bị, hành giả trì chú Dược Vương, mọi khó khăn trên bước đường hành đạo tự động bị đánh bạt. Không cần đối phó với thế lực nào, nhưng việc tự tốt để giúp hành giả tiến tu. Thân tâm hành giả theo đó sáng ra và hiện nét từ bi. Nếu đọc bùa chú của phù thủy là của người ác luyện nên kết quả trái ngược. Họ không hiện tướng giải thoát phước báo, mà hiện tướng ác quỷ.

Đọc thần chú của Bồ tát Dược Vương phát xuất từ tâm từ bi, hành giả cảm thấy mát mẻ như uống nước cam lồ, thấy ấm áp như người con đi lạc gặp lại mẹ hiền. Nếu khôngtác dụng này mà trì chú chỉ tăng thêm nóng nảy, sân hận, ác độchành giả đã lạc vào pháp thuật của tà ma ngoại đạo.

Ngoài Bồ tát Dược Vương, còn có Bồ tát Dũng Thí phát nguyện hộ trì hành giả Pháp Hoa. Trên bước đường tu, hành giả gặp khó khăn hoặc tạo được công đức lành thường hay thay đổi tâm niệm. Vì vậy, Bồ tát Dũng Thí gia trì cho hành giả vững tâm, vững lòng làm việc. Hành giả cần thuốc men, tiền bạc hay bất cứ phương tiện gì, niệm thần chú của Bồ tát Dũng Thí, mọi nhu cầu tự động được giải quyết tốt đẹp. Thành tựu công đức như vậy, hành giả đã gặp Bồ tát Dũng Thí hiện thân trên cuộc đời sống dưới dạng hữu tình.

Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý hiệu nghiệm của thần chú Dũng Thí chỉ đến với những hành giả phát tâm hoằng truyền Pháp Hoa thực dạ tu hành, một lòng vì đạo không tiếc thân mạng. Trái lại, nếu chúng ta niệm thần chú bằng lòng tham, đòi hỏi đủ thứ, thì lời van xin của chúng ta hoàn toàn vô ích, chỉ là tiếng kêu trong sa mạc.

Trong các đệ tử Phật, có một nhân vật điển hình là ông Cấp Cô Độc nhận được lực gia bị của Bồ tát Dũng Thí. Ông cúng dường bố thí thật nhiều mà kho báu vẫn tràn đầy. Lịch sử có ghi ông lót vàng trong vườn Thượng uyển dâng cúng Phật. Từ đó đến nay, không ai làm được như Cấp Cô Độc. Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta thấy rõ những người quyết tâm tu hành hầu như thành tựu nhiều việc Phật sự lớn lao dù họ không có tiền. Tiền tự động có khi chúng ta thực hành tâm bố thí giống như Bồ tát Dũng Thí.

Tỳ Sa Môn Thiên vương thống lãnh chư thần, đặc biệt là loại thần Càn thát bà, thuộc về thần huyễn hóa, thần âm nhạc, khi ẩn khi hiện làm đạo tùy nhân duyên, không có ý niệm trụ ở nơi nào lâu dài bền chắc. Hành giả nào tu hành mang tâm niệm làm đẹp cuộc đời mà bước chân du hóa không bao giờ dừng lại, là đã tương ưng với Tỳ Sa Môn Thiên vương. Nếu cầu nguyện, trì tụng thần chú của Ngài, sẽ nhận được sự hộ niệm.

Trì Quốc Thiên vương cũng cho thần chú bảo vệ chúng ta tu hành. Nhưng Trì Quốc Thiên vương khác với Tỳ Sa Môn Thiên vương. Tỳ Sa Môn Thiên vương đến rồi đi, trong khi Trì Quốc Thiên vương ở đâu bám trụ nơi đó, với tâm niệm phát triển mãi mãi, không phải là huyễn hóa, không dừng lại. Hành giả Pháp Hoa mang hết tâm lực phụng sự Phật đạo, tu hànhTa bà, không đi nơi khác, tương ưng với hạnh nguyện của Trì Quốc Thiên vương, mới nhận được gia bị của Ngài.

Cuối cùng những việc lặt vặt sẽ có 10 quỷ La sát và 100 quỷ tử mẫu giải quyết cho hành giả. Quỷ La sát chỉ cho các loài quỷ linh cũng phát nguyện giữ gìn người trì kinh Pháp Hoa. Hành giả nào trì chú thủ hộ của La sát cũng tìm thấy an lành trong môi trường không an lành. Hành giả không cần bận tâm đến người ác, sẽ có người dữ xấu ác hơn trị họ. Hành giả lo giữ gìn tư cách của một hành giả Pháp Hoa cho tròn, mọi việc đã có Bồ tát, Thiên vương, quỷ thần phát nguyện giữ gìn.

Trên thực tế, tôi thấy rõ có những người rất hung dữ, nhưng họ lại rất tốt với người tu. Chúng ta có thể xếp những người này vào hàng quỷ La sát hay các loại thần linh đã phát nguyện thủ hộ người trì kinh Pháp Hoa sống đúng khuôn mẫu Phật dạy để duy trì Phật pháp tồn tại trên thế gian.

Như vậy hai vị Bồ tát, hai vị Thiên vương và quỷ La sát đều cho thần chú thủ hộ hành giả Pháp Hoa. Nhưng các vị này đồng loạt xác định rằng thần chú đó của Phật, không phải của riêng họ. Điều này gợi cho chúng ta suy nghĩ tuy thần chú đó của Phật, không phải của các Ngài. Nhưng các Ngài sử dụng được, chứng tỏ các vị này là Bồ tát lớn hiện thân lại cuộc đời, mới sử dụng được mật ngữ của Phật dưới nhiều dạng hình khác nhau, để đóng các vai hiền dữ khác nhau, che chở cho hành giả Pháp Hoa trong mọi tình huống.

Theo tôi, chúng ta tồn tại an lành trên bước đường tiến tu đạo hạnh, phải nói nhờ nương theo thần lực của thần linh mật tá bảo vệ. Sự thực riêng bản thân chúng ta chẳng làm được gì, nếu khônggia trì lực của các Bồ tát, Thiên vương, nhất là Bồ tát tùng địa dũng xuất lãnh thọ pháp ấn của Phật. Có người phê phán, xem đây là không tưởng. Thiết nghĩ với tư cách con người, chúng ta còn nhiều vấn đề chưa thông hiểu được về con người, huống chi những việc nằm ngoài phạm vi con người.

Trì chú có kết quả hay không, tùy thuộc vào tư cáchviệc làm của hành giả. Mật ngữ của Phật, Bồ tát, thiện Thần hứa sẽ giúp đỡ, nếu hành giả đúng như pháp tu hành, mang tâm niệm của Phật, làm việc của Bồ tát. Không như vậy, thì dù trì chú suốt đời cũng không thể nào tương ưng với thế giới thánh thiện của chư Phật, chư Bồ tát. Và đối với Thánh ngữ của các Ngài, chắc chắn chúng ta chỉ là kẻ điếc, hoàn toàn tuyệt phần trong việc tiếp nhận Đà la ni hay tín hiệu của các Ngài truyền trao.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19675)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23940)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41178)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19661)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 23955)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21733)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23282)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27477)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26524)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29286)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33150)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20171)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25734)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20885)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31262)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38517)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21401)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44212)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29790)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42142)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22113)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45698)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32079)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23935)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24353)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29222)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33878)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27652)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32098)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21033)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28826)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21534)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28002)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22047)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21410)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19476)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19443)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19807)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19211)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29128)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20594)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23621)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33142)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31816)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21354)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39588)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21528)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19356)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26332)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24790)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21729)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22354)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29108)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22538)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20452)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23476)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21221)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35260)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24534)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant