Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 28 Chúc Lụy

25 Tháng Chín 201100:00(Xem: 6931)
Phẩm 28 Chúc Lụy

LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA 
Hòa Thượng Thích Trí Quảng
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam - TP. Hồ Chí Minh 2011

Phẩm 28

CHÚC LỤY

 

I. LƯỢC VĂN KINH

Lúc bấy giờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từ pháp tòa đứng dậy hiện thần thông lớn, dùng tay mặt xoa đầu vô lượng đại Bồ tát và nói rằng : “Ta đã tu tập pháp Vô thượng chánh đẳng giác trong vô lượng kiếp, rất khó được. Nay đem giao cho các ông. Các ông nên hết lòng truyền bá cho được lợi ích”.

Đức Phật xoa đầu các Bồ tát và lập lại câu trên ba lần : “Như Lai là đại thí chủ của tất cả chúng sanh. Các ông nên học theo pháp Như Lai, không nên sanh lòng bỏn sẻn. Đời sau, nếu có người tin trí tuệ của Như Lai thì các ông nên vì họ nói kinh Pháp Hoa. Nếu gặp chúng sanh không tin kinh này, các ông phải dùng pháp khác chỉ dạy cho họ lợi ích an vui. Làm như vậy là báo ơn Phật”.

Các đại Bồ tát nghe xong hết sức vui mừng chắp tay bạch Phật : “Chúng con sẽ làm đầy đủ như lời đức Thế Tôn dạy, kính xin Ngài chớ lo”. Sau đó, Đức Phật Thích Ca nói với các phân thân và tháp Đa Bảo hãy trở về bổn độ.

II. GIẢI THÍCH

Đức Phật phô diễn kinh Pháp Hoathế giới siêu thực và phú chúc cho các Bồ tát siêu hình bằng pháp không lời ở phẩm Như Lai Thần Lực xong. Ngài thu thần lực trở về thực tế, đối trước chúng hội cần phải diễn tả pháp chân thật bằng lời nói. Đức Phật đưa ra hình ảnh các vị đại Bồ tát kiểu mẫu như Dược Vương, Diệu Âm, Quan Âm, Phổ Hiền… Các Ngài thể hiện được sự hành đạo tự tại, giáo hóa chúng sanh Ta bà dưới mọi dạng hình không chút chướng ngại.

Đức Phật nêu lên những mô hình tiêu biểu giữ được pháp chân thật tồn tại lợi lạcTa bà. Đại chúng cảm nhận được hạnh nguyệnviệc làm kiên cố của chư Bồ tát trên bước đường hoằng hóa độ sanh. Đức Phật từ pháp tòa bước xuống xoa đảnh các Bồ tát và phú chúc rằng Đức Phật tu trải qua vô số kiếp đạt được pháp ít có khó được. Nay đem phú chúc cho các ông. Các ông phải học theo hạnh Như Lai, mang tư tưởng này truyền dạy mọi người, đừng nên bỏn sẻn.

Về vấn đề phú chúc, ở đây có sự khác biệt giữa hai bản kinh Pháp Hoa. Bản Hán dịch 28 phẩm của Ngài Cưu Ma La Thập ghi Đức Phật xoa đảnh phú chúc các Bồ tát. Trong khi bản dịch chữ Anh ghi Đức Phật phú chúc bằng cách bắt tay các Bồ tát.

Đức Phật đưa một tay bắt toàn bộ tay của các Bồ tát, nhằm gợi cho chúng ta hiểu sự tương quan liên hệ mật thiết giữa Ngài và mọi người. Đức Phật không đơn thuần đóng khung trong tính chất một chúng sanh cá biệt riêng rẽ. Ý này ứng với phân thân Phật trong phẩm Hiện Bảo tháp, ở trạng thái siêu hình biến hóa không tính lường được.

Đức Phật bắt tay từng người và đưa vào tay mỗi người để họ nắm bắt tiếp thu được những gì Ngài trao cho, mới thực sự thể hiện ý nghĩa phú chúc. Nói cách khác, Đức Phật truyền Như Lai lực hay pháp sống thực cho các Bồ tát, không phải truyền mớ giáo điều khô chết.

Như Lai lực tuy vô hình, không diễn tả được nhưng thể hiện sâu sắc rõ nét, hoàn toàn đầy đủ trong suốt cuộc đời hoằng hóa của Phật, luôn luôn là tấm gương sáng chói. Ngài đem cả cuộc đời siêu tuyệt bất tử này phú chúc cho hành giả Pháp Hoa lập thân hành đạo.

Lúc phú chúc cho các Bồ tát cựu trụ, chúng ta thấy Phật phóng quang. Nhưng nay đối với chúng đương cơ và chúng đời sau, Phật chỉ nói Ngài đem phú chúc pháp ít có khó được. Những hành giả Pháp Hoa đang dấn thân trên lộ trình Bồ tát đạo chắc chắn cảm nhận sâu sắc lời Phật dạy về giáo pháp Ngài đạt được quả thật ít có khó gặp trên thế gian. Duy nhất hiện hữu một Đức Phật Thích Ca và mãi đến nay không có một Đức Phật thứ hai nào.

Tuy Phật không nói rõ pháp khó gặp là pháp gì, nhưng chúng ta có thể căn cứ vào đoạn kinh kế tiếp để phát hiện pháp Ngài chứng được và truyền trao cho ta : “Đức Như Lailòng từ bi lớn, không có tính bỏn sẻn cũng không sợ sệt, có thể cho chúng sanh trí tuệ của Phật, trí tuệ của Như Lai, trí tuệ tự nhiên”.

Qua đoạn kinh trên, chúng ta nhận thấy Phật sẵn sàng cho hành giả Pháp Hoa ba pháp là Phật huệ, Như Lai huệ, Tự nhiên trí. Chúng ta học Phật, làm tất cả việc, cũng chỉ nhằm để phát sinh ba huệ này.

Tự nhiên trí hay vô sư trí mà Phật đạt được do pháp quán mười hai nhân duyên. Với Tự nhiên trí Ngài biết rõ chính xác sinh hoạt biến dạng, đổi thay của con ngườivũ trụ. Trải vô số kiếp tu quán pháp này và thấy biết đúng như thật muôn sự muôn vật, Phật bình thản trước mọi sóng gió cuộc đời. Trong lòng Ngài vắng lặng hoàn toàn, không còn gợn chút phiền não. Vui buồn vinh nhục thế gian như dòng nước ao tù, chẳng bao giờ đến gần Ngài được. Với tâm hoàn toàn như như bất động, Phật trụ pháp vô vi, muôn việc đều trôi chảy giải thoát.

Như Lai huệ thể hiện rõ nét qua hình ảnh Phật phú chúc cho các Bồ tát. Ngài ngồi yên mà ánh quang phóng đi soi rọi mười phương, truyền trao chân thật pháp cho các Bồ tát cựu trụ, khiến chư Thiên phải phát tâm. Với huệ Như Lai trang trải cho đời, Ngài sống rất bình thản tự tại trên cuộc đời ô trược. Nhưng giữa đức Phật và mọi loài hiện hữu một tương quan mật thiết kỳ diệu.

Ngoài ra, Phật được tôn xưng là bậc Toàn Giác, Thế Gian Giải hay Chánh Biến Triđạt được Phật huệ hay sự hiểu biết toàn diện chính xác.

Khi nhận chân rõ thế nào là Phật huệ, Như Lai huệ và tự nhiên trí, chúng ta tự xét khả năng mình còn cách xa ba phần trí huệ này. Thật vậy, mỗi chúng ta còn tồn đọng quá nhiều vô minh phiền não, chẳng những Như Lai huệ không có, mà tự nhiên trí cũng không được, huống chi là Phật huệ.

Về mặt vô hình, Phật phú chúc cho các Bồ tát cựu trụ Tùng địa dũng xuất. Các Ngài nghe được, hiểu được, mới nhận lời giữ gìn kinh Pháp Hoaphát nguyện xin làm đầy đủ. Đối với chúng ta chưa nghe, chưa hiểu và phần phú chúc cho các Bồ tát, chúng ta cũng không tìm thấy trong kinh, nên phần này có tác dụng gợi ý cho ta đó là Pháp Hoa. Và hành giả cần nương theo pháp phương tiện chưa phải là Pháp Hoa mà Phật phú chúc cho các Bồ tát hữu hình, để thâm nhập vào các pháp mầu khác.

Trên phương diện nhân gian, Phật phú chúc cho các Bồ tát đương cơ và cũng phú chúc cho chúng ta. Nhưng khi sanh lại trên cuộc đời này, chúng ta bị thân ngũ ấm ngăn che, sai sử, mãi lo làm nô lệ cho nó, quên mất lời dặnủy thác của Ngài. Tuy nhiên, khi tâm hồn thật lắng yên, hành giả bắt gặp sự truyền trao của Phật. Nhờ đó, thôi thúc chúng ta vững tiến trên đường Bồ tát đạo, duy trì mạch sống đạo lưu xuất mãi trong nhân gian.

Sự tương quan mật thiết sâu xa giữa Phật và hành giả Pháp Hoa là một sự liên hệ hỗ tương hai chiều. Nếu không có sự hộ niệm của các Ngài, chúng ta không thành tựu công đức lành. Ngược lại, không có chúng ta, các Ngài cũng không nương đâu mà tỏa sáng chánh pháp.

Mọi nơi, mọi chỗ đều vang lên pháp âm. Nhưng hành giả không có khả năng trực nhận, nên giữa Phật và chúng ta muôn trùng xa cách. Phật là Phật, chúng sanhchúng sanh.

Tóm lại, kinh Pháp Hoabộ kinh tối yếu. Không riêng Đức Phật Thích Ca mà tất cả ba đời mười phương chư Phật đều lấy kinh này làm phương hướng tu hànhtruyền đạo trên lộ trình dẫn dắt chúng sanh đến quả vị Nhất thiết chủng trí.

Trong một quá trình lịch sử truyền bá kinh Pháp Hoa dài lâu, chỉ xuất hiện vài vị Thánh Tăng siêu việt sử dụng được trọn vẹn mười phần công đức của kinh Pháp Hoa, ngang hàng với Bồ tát đệ thập địa. Ở Trung Hoa thì có Ngài Thiên Thai Trí Giả đại sư, hay ở Nhật BảnNhật Liên Đại Thánh nhân.

Tuy nhiên trong thế giới phàm phu tội lỗi, trong những người đui mù không Đạo sư, chúng ta là những người may mắn được thọ trì kinh Pháp Hoa, kết duyên được với kinh Pháp Hoa. Tuy chúng ta còn bị phiền não trói buộc, ba điều kiện trong phẩm Pháp Sư : vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai chưa tròn đầy miên viễn. Thỉnh thoảng, chúng ta cũng chợt bắt gặp được những âm thanh kỳ diệu của Phật. Dù kinh Pháp Hoa ta nghe được văng vẳng, vẫn còn hơn là những kẻ trăm ngàn muôn kiếp chưa nghe đến tên Tam Bảo.

Ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề… là những chúng kết duyên từ thời Phật Đại Thông Trí Thắng, nên bây giờ được thọ ký. Chúng ta là những người kết duyênhội Linh Sơn, nên ngày nay tuy còn sống trong nhà lửa tam giới, vẫn an nhiên tu học nhân hạnh Pháp Hoa, nhận được ít nhiều công đức.

Càng đọc tụng lễ lạy kinh Pháp Hoa, Phật càng gần gũi chúng ta. Chẳng những Ngài mà cả mười phương chư Phật, đều lần lượt hiện ra trước mặt chúng ta. Các Ngài an ủiấn chứng cho lời phát nguyện của những hành giả Pháp Hoa sơ phát tâm đang cố gắng noi theo lời Phật dạy, làm việc khó làm trong cõi đời ác trược.

Đạt được độ cảm này, chúng ta lướt qua mọi chông gai khó khăn, tiến bước trên con đường hiểm 500 do tuần đến bảo sở, mà không thấy cô độc và chán nản. Nhờ lực gia bị của chư Phật, chư Bồ tát và độ cảm sâu xa với các Ngài, chúng ta tiếp tục tiến tu đạo hạnh, một lòng một dạ thọ trì kinh Pháp Hoa. Lần lần huân tập vào tạng thức những hạt giống Bồ đề vô lậu và trải rộng cuộc sống dưới bốn dạng giáo, lý, hạnh, quả. Chúng ta thể hiện thành những kết quả giải thoát sáng suốt, sống thực trong từng việc làm lợi lạc cho đời.

Đến một ngày nào đó, nghiệp chủng tử hoàn toàn thuần thiện, trang nghiêm đầy đủ đạo hạnh Bồ tát, Đức Thế Tôn sẽ xoa đầu thọ ký cho chúng ta. Bấy giờ, đoạn đường dẫn đến thế giới Pháp Hoa chân thật đảnh lễ chư Phật mười phương, làm bạn lữ với Bồ tát Tùng địa dũng xuất chỉ trong gang tấc vậy.

NAM MÔ TỐI THƯỢNG THỪA VIÊN GIÁO DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH

PHÁP HOA HỘI THƯỢNG PHẬT BỒ TÁT.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10396)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12357)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11659)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28816)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12058)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13018)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11452)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12385)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17454)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53085)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35497)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12424)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13323)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14391)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16098)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13734)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16855)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13140)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12542)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11617)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11628)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19588)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12191)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12330)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15041)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15047)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11407)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17203)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14986)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20223)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14629)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13856)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15073)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13005)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22896)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11670)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11509)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15860)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12894)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18927)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18433)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant