Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22. Phẩm Chúc Lụy

26 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 7187)
22. Phẩm Chúc Lụy

KINH PHÁP HOA GIẢNG GIẢI
Lê Sỹ Minh Tùng
PL. 2556 DL. 2012

Chương Thứ Hai Mươi Hai

Phẩm CHÚC LỤY

Download Giọng Đọc: Nguyên Hà 

 

Chúc là phó chúc, là giao phó. Lụy là dặn dò cho nên Chúc lụy là di chúc, dặn dò hay phó thác cái trách vụ nào đó cho người khác hay người đời sau để duy trì, bảo tồn cho được dài lâu.

Bất cứ một bộ kinh nào thường được trình bày theo thứ tự là phần Tựa, phần Chánh tông và sau hết là phần Lưu thông. Cũng giống như sách vở ngoài đời thì có phần mở đầu, phần thân bài và phần kết luận. Thế thì phẩm Chúc lụy phải thuộc về phần Lưu thông tức là phần kết luận của bộ kinh. Nhưng ở đây kinh Pháp Hoa còn có thêm sáu phẩm nữa vì thế nếu đúng theo thứ tự thì nó phải ở phẩm cuối hay tối thiểu ở phẩm thứ 27 tức là phẩm kế chót và sau cùng phẩm sau cùng là phẩm Phổ Hiền Hạnh để nhắc nhở chúng sinh Tri Hành phải hợp nhất. Như đã trình bày trong phần giới thiệu, có rất nhiều phẩm của kinh Pháp Hoa được người đời sau thêm vào chẳng hạn như phẩm Đề Bà Đạt Đa, phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát…cho nên kinh không còn đúng theo thứ tự như lúc ban đầu.

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca Mâu Ni, từ pháp toà đứng dậy, hiện sức thần lớn, dùng tay mặt xoa đầu vô lượng đại Bồ-tát mà nói rằng:

-Trong vô lượng trăm ngàn muôn ức A-tăng-kỳ kiếp, ta đã tu tập pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác khó được nầy, nay đem giao cho các ngươi, các ngươi nên hết lòng truyền bá để đem lại sự ích lợi cho nhiều người.

Nếu nói về sự thì đức Phật từ pháp tòa đứng dậy dùng Phật lực lấy tay xoa đầu các Bồ Tát, thế thì đức Phật xoa được bao nhiêu cái đầu? Nhưng thâm ý của kinh ở đây là bất cứ Bồ Tát nào cũng đều có Phật tánh vô lượng vô biên cho nên bất cứ Bồ Tát ở đâu thì thần lực của đức Phật tức là Phật tánh cũng xuất hiện ngay ở đó để xoa đầu họ.

Vì thế trong mỗi chúng sinh đều có sẵn Tri Kiến Phật tức là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm cho nên mỗi chúng sinh phải phụng trì sống đúng với Tri Kiến Phật đó. Đức Phật từ trong vô lượng kiếp đã tu tập pháp Vô Thượng Bồ Đề khó kiếm này, nay Ngài đem phó chúc cho các Bồ Tát để sau này thọ trì đọc tụng tuyên nói pháp này cho tất cả mọi nguời đều được nghe biết. Đoạn kinh này chứng minh rằng chính đức Phật cũng phải trải qua vô lượng hằng sa kiếp tu hành mới thành tựu pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác tức là thành Phật vì thế người đệ tử Phật đừng nghĩ rằng mình sẽ thành Phật ngay trong đời này. Chính đức Phật nhờ tu pháp này mà thành Phật nên Ngài khuyên các đệ tử phải một lòng tinh tấn tu tập để chứng nghiệm như Ngài chớ không phải truyền bá suông thì không bao giờ biết được hương vị giải thoát. Bởi vì đạo Phật là đạo thực hành vì có thực hành mới có thực chứng.

Đoạn kinh trên là dựa theo tư tưởng Đại thừa, nhưng theo Nguyên thủy thì hành giả có thể chứng đắc quả A la hán ngay trong đời này bằng chứng là vào thời đức Phật còn tại thế, có hàng vạn vị A la hán. Đối với Nguyên thủy thì đức Phật là vị A la hán như tất cả những vị A la hán khác, nhưng danh vị Phật chỉ dành cho đức Thế Tôn vì Ngài là vị thầy của tất cả các vị A la hán và Ngài là người chứng quả A la hán đầu tiên.

Đức Phật ba phen xoa đầu các Bồ-tát và ba phen lập lại câu nói trên.

-Như Laitừ bi lớn, không tham tiếc cũng không có điều sợ sệt, năng cho chúng sanh trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiênNhư Laiđại thí chủ của tất cả chúng sanh, các ngươi nên thọ học theo pháp của Như Lai, chớ nên tham tiếcĐời sau, nếu có trai lành gái thiện nào tin trí tuệ Như Lai thì các ngươi nên vì những người ấy mà diễn nói Kinh Pháp Hoa, để họ nghe biết tu hành, thành tựu được Phật tuệ. Nếu gặp hạng chúng sanh không tin lãnh lời kinh, thì nên dùng pháp khác trong các giáo pháp thâm diệu của Như Lai mà chỉ dạy cho họ được lợi ích vui mừng. Làm được như thế là các ngươi đã báo ân Phật rồi vậy.

Như Lai mà kinh nói ở đây là bản thể chân như bao trùm khắp chớ không phải đơn thuầnđức Phật Thích Ca. Cái bản thể chân như lúc nào cũng tồn tại hiện hữu suốt cả thời giankhông gian. Vì sự bao trùm khắp cả nên Như Laiđại từ bi để ban cho tất cả chúng sinh sự an lành. Đó chính là Như Lai Viên Giác Diệu Tâm lúc nào cũng hiện hữu thường hằng trong tâm của mỗi chúng sinh. Vì thế khi chúng sinh khởi ý niệm lành để cứu giúp kẻ khác thì Như Lai đang phát tâm từ bi cứu độ chúng sinh đó. Nói chung Như Lai bố thí tất cả giúp chúng sinh phát huy Nhất thiết chủng trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí của chính mình để thật sự có an lạc Niết bàn. Nhưng nếu nói Như Lai là vị đại thí chủ thì Như Laibố thí tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến cho chúng sinh không? Nếu Như Lai không cho thì làm sao gọi là đại thí chủ? Đối với Như Lai thì thế gianthanh tịnh bản nhiên nên không hề có tham, sân, si, mạn, nghi…tức là không hề có ô nhiễm. Nhiễm là vì chúng sinh còn mê đến khi sống trong tỉnh thức chánh niệm thì mê biến giác hiển bày. Tại sao? Bởi vì sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tự nó là tự tánh thanh tịnh bản nhiên không hề bị ô nhiễm nên tuy gọi là trần nhưng chúng đâu có ô nhiễm. Nhiễm cấu là vì tâm chúng sinh còn tham đắm, còn dính mắc nơi sắc, nơi thanh, nơi hương….còn Như Lai trong ngoài tự tại thì tìm đâu ra ô nhiễm mà không ô nhiễm thì làm gì còn tham, sân, si. Vì thế căn, trần đều thanh tịnh thì thế giới sẽ thanh tịnh, phù hợp với Phật tánh thanh tịnh của vạn pháp, vũ trụ.

Đức Phật đã ba lần khẳng định rằng Pháp Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chính là kinh Diệu Pháp Liên Hoa vì thế kinh Pháp Hoa là kinh đưa người tu thành Phật, là kinh tối thượng thừa. Đó là tại sao chư Phật xuất hiện trong thế gian này không ngoài mục đích “khai thị” giúp chúng chúng sinh “ngộ nhập” cái Trí Tuệ Phật, Trí Tuệ Như Lai, Trí Tuệ tự nhiên vốn đã có sẵn trong mỗi chúng sinh. Vì lòng từ bi, đức Phật chỉ cho chúng sinh nhận biết Trí Tuệ Phật của mình mà kinh gọi là “cho” chớ thật ra Ngài không bao giờ đem trí tuệ cho ai được. Chỉ có kinh Pháp Hoa mới xiễn dương tình thần bình đẳngmọi người đều có Trí Tuệ Phật nên ai cũng có thể tu thành Phật.

Tuy Tri Kiến Phật là bổn tánh huyền diệu thiêng liêng mà ai cũng có, tuy nhiên rất nhiều người căn cơ còn thấp không thể lãnh hội được giáo lý tối thượng thừa của kinh Pháp Hoa thì Phật dạy nên dùng giáo lý bất liễu nghĩa tức là giáo lý phương tiện để giáo hóa họ mà mang lại sự lợi ích an lành thì cũng như đền đáp ơn Phật rồi vậy. Giáo lý Phật Đà có năm thừa vì thế tùy theo căn cơ sở nguyện chúng sinh có thể tu học bất cứ thừa nào cũng được. Cái huyền diệu ở đây là phía thực hành cho nên tuy một người chỉ tu nhân thừa, giữ gìn tam quy ngũ giới trọn vẹn tròn đầy thì chính họ sẽ có hạnh phúc an lành dựa theo tinh thần nhân thừa rồi.

Tôn chỉ của đạo Phậtdiệt khổ nghĩa là không làm khổ mình, không làm khổ người. Vì thế thiên đường thì do ta mà địa ngục thì cũng do ta cho nên người xưa có câu:

Thiên đường hữu lộ tùng tâm ngộ

Địa ngục vô oan tự tánh hôn.

Nghĩa là khi tâm tỉnh ngộ thì có cảnh thiên đường rực rở, còn tâm mê muội thì nhìn đời khác chi là địa ngục A tỳ. Nhưng người học Phật có thể chuyển địa ngục thành ra thiên đường bởi vì thật tánh của vô minhPhật tánh. Thật tánh của phiền não ưu bitự tánh thanh tịnh bản nhiên cho nên mê là địa ngục A tỳ còn sống trong thức tỉnh chánh niệm là có thiên đường ngay.

Khi nghe Phật nói xong, các Đại Bồ-tát đều cảm thấy sự vui mừng lan khắp thân thể. Lòng thêm cung kính, các Bồ-tát nghiêng mình cúi đầu, chấp tay hướng Phật đồng bạch:

-Chúng con sẽ làm đầy đủ theo lời Thế Tôn dạy, kính xin Thế Tôn đừng lo nghĩ nữa !

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích Ca truyền cho các phân thân Phật đã từ mười phương đến, đều trở về nứơc mình và nói rằng:

-ChưPhật mỗi vị tuỳ chỗ an trú của mình mà trở về bổn độ tháp của Phật Đa Bảo hoàn nguyên bản vị.

Trong lúc Phật nói, mười phương vô lượng phân tâm Phật đang ngồi trên toà sư tử dưới cây báu, cùng Phật Đa Bảo với vô biên vô số Bồ-tát như Xá-lợi-phất… hàng Thanh Văn, bốn chúng và tất cả thiên, nhân, a-tu-la, nghe lời Phật nói đều rất vui mừng.

Sau khi nghe lời phó chúc, các vị Bồ Tát nguyện sẽ thực hành đúng như lời dặn của Thế Tôn. Đến đây thì phần “Thị” và “Ngộ” Tri Kiến Phật đã xong cho nên đức Phật yêu cầu các phân thân Phật đến từ mười phương để hợp lực cùng Phật Thích Ca mở tháp Đa Bảo để cho đại chúng chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo có thể trở về bản xứ để tiếp tục công việc của mình. Và sau cùng xin Phật Đa Bảo mang bảo tháp về chỗ cũ. Kinh đã dùng một hình ảnh tuyệt diệu để diễn tả những ý tưởng thâm diệu mà ngoài hình ảnh đó có lẽ ngôn ngữ của con người không thể nào diễn bày được. Đến đây là chấm dứt phần Khai, Thị, Ngộ. Phần duy nhất còn lại là “Nhập” tức là phần thực hành cái Tri Kiến Phật đó. Phần lý thuyết thì đức Phật đã chỉ bày xong cho nên phần thực hành thì chúng sinh mỗi người phải tự mình hành trì và sống đúng với những tư tưởng Khai, Thị, Ngộ để liễu ngộ chân lý.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12507)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10396)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12358)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11661)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28820)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12059)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13019)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11453)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12385)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53087)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21409)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12425)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26055)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13324)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14391)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13736)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17597)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13141)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12544)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11618)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11630)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14515)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20493)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19001)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19593)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18671)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12193)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12331)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13868)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15042)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15047)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13998)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15531)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11408)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17204)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14987)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20225)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14630)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13858)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11717)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15074)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13005)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22899)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14563)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11671)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13176)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16893)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18354)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11510)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12895)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18434)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant