Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bố Thí Ba-la-mật

17 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 11637)
Bố Thí Ba-la-mật


Một cách cốt lõi, Bố thí Ba-la-mật nghĩa là những gì ta cho hay chia sẻ với người khác không nên do tính toán hơn thiệt hoặc bị ô uế do sự keo kiệt bủn xỉn. Trong các giáo pháp Phật, ta nói về nhiều dạng thức cho như là cho quà vật chất, cho yêu thươngbảo vệ, hay cho thuyết giảng tinh thần. Bất kể những gì bạn cho đi, việc quan trọng là không quyến luyến gắn bó vào nó hay không keo bẩn về thứ được cho.

Thực hành Bố thí Ba-la-mật góp phần cho việc đạt tới trạng thái toàn hảo cuối cùng của bạn gọi là "giác ngộ". Đây là mục tiêu của bố thí. Trong việc thực hành Ba-la-mật này, bạn đừng bao giờ nghĩ đến sự đáp trả. Nó phải nên là việc cho vô điều kiện.

Về Hạnh Bố Thí

Việc cho không chỉ là một phương thuốc chữa tham lamMục đích của bố thí là để tăng cường sự hứng khởi trong việc cho. Điều này gọi là Bố thí ba-la-mật.

Chúng ta nên thực hành bố thí không phân biệt. Ta có thể cho hướng tới các đối tượng:

Kẻ thù
• Bạn bè
• Người không quen biết
• Người có phẩm chất tốt đẹp
• Người có lầm lỗi
• Người ở địa vị cao hơn ta
• Người có vị trí thấp hơn ta
• Người cùng đẳng cấp với ta
• Người đang hạnh phúc
• Người đang đau khổ

Đó là mười dạng có thể được nhận bố thí.

Khi thực hành bố thí, ta nên cứu xét đến hoàn cảnh đặc thù. Khi cho kẻ thù, thì nên làm điều đó với yêu thương. Khi cho bạn bè, thì nên làm điều đó mà không có luyến chấp. Khi cho người xa lạ, thì không nên bỏ quên họ qua một bên. Khi cho người có phẩm chất tốt đẹp, không nên thèm muốn ghen tỵ. Khi cho người lầm lỗi, không nên xem thường họ. Bằng cách này ta thực hành tùy theo người nhận.

Bố thí ba-la-mật được phân làm bốn kiểu [59].

Kiểu thứ nhất là Bố thí vật chất [tài thí]. Trường hợp này bạn nên cứu xét những gì bạn đang cho. Nếu cho những thứ gây hại cho người nhận thì đây không phải là cách cho đúng. Thí dụ cho vũ khí và chất độc là không đúng. Cũng vậy người ta nói rằng "cho bạc và hy vọng sẽ nhận được vàng trả về" không phải là cho chân thật. Đó chỉ là một loại đổi chát hay buôn bán.

Và nếu bạn trở nên tự hào và kiêu mạn khi cho, thì tất cả công đức đều bị mất. Với lòng tự hào ích kỷ bạn nghĩ rằng, "Tôi và chỉ có tôi mới làm được bao nhiều điều vỹ đại". Chẳng hạn nếu bạn thực hành bố thí với một ý nghĩ về việc tưởng thưởng một sự nổi tiếng, thì tất cả công đức từ sự bố thí đều bị mất. Thay vì vậy, các Bồ-tát cầu nguyện rằng nghiệp quả tích cực từ bố thí của họ sẽ trổ cho tha nhân hơn là cho chính mình. Trước đây, tôi có nói rằng tôi không phấn đấu để đạt giải Nobel. Nếu chỉ để như vậy, tôi có thể không cần làm việc gì nữa sau đó [sau khi nhận giải]. Cho dù có được giải hay không thì cũng không làm cho tôi trở nên tốt hơn hay tồi tệ hơn được. Tôi cũng vẩn là một tu sĩ Phật giáo. Nếu ta làm bất kì điều gì với ý tưởng để được tưởng thưởng hay được nổi tiếng thì mọi thứ sẽ mất hết.

Kiểu thứ hai của bố thíBố thí giáo pháp [pháp thí], hay là bố thí các lời dạy. Trong tác phẩm Nhập Bồ Đề Hành Luận có nói rằng ta nên đánh giá mục tiêu và sự cần thiết của việc bố thí. Nên pháp thí không nhất thiết có nghĩa là việc giảng dạy từ trên một ngai vàng mà là dạy những gì để giúp đỡ người. Dạy người với một động thái hữu ích, chẳng hạn như một giáo viên ở trường, là một hành động thực sự tốt đẹp. Ở đây bao hàm tất cả các công việc giúp đỡ người khác tăng trưởng tri kiến của họ. Bạn phải thực sự có động lực để giúp người. Nếu chỉ nghĩ đến lương bổng, thì điều đó không mấy ích lợi. Dạy dổ với một thái độ yêu thương thì thực sự khác.

Trong Nhập Bồ Đề Hành luận [3]cũng có rằng việc dạy người khác ở trình độ hợp lý là điều quan trọng. Có một vị sư tên là Govapa được vua của xứ đó đến thăm. Vua yêu cầu được giảng dạy giáo pháp, Govapa bạch: "Tất cả các hiện tượng đều có bản chất trống rỗng; chúng không giống như cách mà ta nhận thức về chúng". Nhà vua liền nghĩ "Ồ, đây thật là một cách nghĩ càng rở". Vậy nên nhà vua đã chém đầu Govapa. Đức Phật có dạy rằng một người nên xem xét đến ước nguyện, hoàn cảnh môi trường, và căn cơ của những người theo đạo mà giảng huấn.

Kiểu thứ ba của bố thícung ứng một sự bảo vệ khỏi các khiếp sợ [Vô úy thí]. Các thí dụ bao gồm việc giúp đỡ những ai trong tù, tán thành nhân quyền (điều này sẽ bao gồm các công việc được tiến hành bởi tổ chức Ân xá Quốc tế [Amnesty Intarnational] chẳng hạn), và việc cứu trợ cuộc sống cho mọi chúng sinh hữu tình. Các khu cư trú và các luật bảo tồn được tạo ra cho các loài thú có nguy cơ tuyệt chủng hay chống lại sự săn bắt là việc làm bảo vệ sự sống. Tương tự, thực hành ăn chay cũng phát triển bố thí về việc cung ứng sự bảo vệ khỏi khiếp sợ, cũng như là việc làm trong chính sách bất bạo động. Các bác sĩ, y tá, người điều dưỡng, như là những người chăm sóc cho các người khuyết tật -- tất cả đều thực sự làm vô úy thí. Một lần tôi có thăm viếng trại trẻ em mù tại Nhật. Họ thật sự thiếu thốn. Tôi có lẽ không thể làm việc nổi ở đó dù chỉ trong vài ngày. Tôi đã nói với những người làm việc ở đó rằng "các bạn thật sự giúp đỡ tha nhân. Tôi giảng thuyết về từ bi nhưng công việc của các bạn là hành vi từ bi. Điều này thật ấn tượng và đáng khâm phục". Đây quả thật là một cách trực tiếp và thực tế của hạnh vô úy thí.

Trong thế giới ngày nay, nhiều người làm việc trong đa dạng các tổ chức cứu tế lo lắng về bão lụt, động đất, đói kém, hạn hán, bệnh tật, chẳng hạn như là AIDS, các phong trào vì hòa bình, nó đều được cứu xét như là vô úy thí.

Kiểu thứ tư của bố thí là cho phần thân thể của mình [tự thân thí]. Một thí dụ về điều này là việc hiến tạng cho người khác. Đây thật là ý tưởng thuần khiết, ước muốn rằng cặp mắt của mình có thể hữu ích cho người khác sở dụng. Hiến tạng là việc tốt đẹp

Bạn phải biết rõ mục đích của việc cho. Bạn phải biết rõ lúc nào thích hợp để thực hành một loại bố thí đặc biệt này; ý thức được ở đâu, khi nào, và với điều gì thì loại bố thí nào sẽ không phù hợp. Chẳng hạn sẽ không hợp lý nếu đem thực phẩm đầy chất béo cho người không thể tiêu hóa chúng được. Như có nói trong "Nhập Bồ-đề Hành luận" và trong "Nhập Trung Quán luận" [4], điểm mấu chốt là ở chỗ bố thí tùy theo khả năng của mình trong khuôn khổ của phương tiệntrí huệ. Nếu có một nghi ngờ nào đó về việc bố thí thân thể của mình, thì việc cho này sẽ không phù hợp với bạn.

Với mọi dạng thực hành, ta đều tiến hành như các bậc bồ-tát, trước tiên phải khởi bồ-đề tâm, một trái tim tỉnh giác ước mong tốt đẹp cho tha nhân, và sau đó tiến hành bố thi mà không phân cách với con tim tỉnh giác trong khi vẩn giữ sự toàn tâm thường hằng của con tim tỉnh giác này. Tương tự ta phải bảo tồn hiểu biết về sự thiếu vắng về sự tồn tại thực sự của ba yếu tố liên quan đến hành động bố thí -- nghĩa là ta phải thấy người cho, người nhận và hành động cho như là ảo tưởng.

Cuối cùng ta hồi hướng mọi công đức về cho toàn bộ chúng sinh hữu tình. Điều này phải được hoàn tất với hiểu biết về sự thiếu vắng bản chất của sự tồn tại. Chúng ta hồi hướng ngay cả kết quả hay sự hoàn tất của các hành vi tích cực của chúng ta.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13720)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25409)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13788)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15099)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17711)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17115)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14218)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13204)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14463)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19771)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16755)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18635)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19068)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18872)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21182)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14806)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39199)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14415)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19395)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14727)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16158)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14712)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15240)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14918)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15580)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39162)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14135)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24522)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14398)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18031)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21477)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19702)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17526)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14852)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13901)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13770)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14121)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21927)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16759)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15239)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14545)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14063)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14377)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15690)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15028)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18573)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24689)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23131)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28578)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15077)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14129)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14651)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18319)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26535)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15208)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14862)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15214)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15158)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant