Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Dược Sư Giải Nghĩa

27 Tháng Tám 201512:32(Xem: 28376)
Kinh Dược Sư Giải Nghĩa
KINH DƯỢC SƯ GIẢI NGHĨA

 

Toàn Không

Kinh Dược Sư Giải Nghĩa

 

LỜI MỞ ĐẦU

 

     Nhiều người đọc Kinh Dược Sư hiểu sai ý của Phật Thích Ca muốn nói, hiểu sai nên đã đưa vào đường mê tín mà không biết, vì ở phần đầu của kinh Dược Sư, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã bảo Bồ tát Văn Thù Sư Lợi: "Hay thay! Hay thay! Mạn Thù Sư Lợi! Ông lấy lòng đại bi yêu cầu Ta nói những bản nguyện công đức của chư Phật là vì muốn cho chúng hữu tình khỏi bị nghiệp chướng ràng buộc, lợi ích an vui, trong đời tượng pháp về sau; nay ông nên lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì ông mà nói".

     Đức Phật tuy bảo Bồ Tátlắng nghe” và “suy nghĩ kỹ”, nhưng thực ra Ngài bảo tất cả Phật tử khi đọc Kinh này phải chú ý đọc rồi suy nghĩ cho kỹ; vì Bồ tát Văn Thù là bậc trí tuệ đẳng giác, đâu còn những nghiệp chướng ràng buộc, đâu còn những khổ nạn như chúng ta nữa, mà chính chúng ta là những người Đức Phật nhắm giáo hóa.

      Bởi vậy, chúng tôi cố gắng tìm hiểu ý của Phật muốn chỉ để giải thích và viết ra, hy vọng rằng những sự giải nghĩa của chúng tôi được đầy đủ ý mà Đức Phật muốn nói, và người đọc ghi nhớ để thực hành đúng nghĩa Đức Phật dạy, thì kết qủa sẽ được tốt đẹp.

     Để sự giải nghĩa được rõ ràng mạch lạc, và sự theo dõi của độc giả được dễ dàng, chúng tôi xin chia Kinh này ra làm 37 đoạn, mỗi đoạn là một Kinh Văn có tên theo nội dung của đoạn Kinh. Sau chót, mặc dù cố gắng trong việc giải thích và trình bày, nhưng còn có khiếm khuyết, xin qúy vị Thiện Tri Thức chỉ cho, tác giả xin chân thành đa tạ vô cùng.

GIẢI NGHĨA ĐỀ KINH:

 Để dễ hiểu, chúng ta phân biệt dùng chữ nghiêng đậm là lời Kinh, chữ thẳng thường để giải thích, chúng ta cùng theo dõi sau đây:

ĐỀ KINH:

 

Kinh (1) Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai (2) Bản Nguyện (3) Công Đức (4)

GIẢI NGHĨA:

(1) Kinh: Kinh là các đường chỉ dọc của vải làm chuẩn cho tấm vải, tức là pháp không đổi thay, luôn luôn nó như vậy; Phật nay giảng như thế này, Phật quá khứ cũng đã giảng như thế, Phật trong tương lai cũng giảng như vậy, không bao giờ thay đổi gọi là Kinh.

 

(2) Như Lai:

NhưPháp Tánh tức Thật Tướng, là không hai, không khác, không biến, không động; Chân Diện Mục của vạn pháp đều đồng một tướng, cho nên gọi là “Như”.

Lai là căn nguyên, có nghĩa lúc ban đầu (như từ vô thủy đến nay) chưa có vật gì. Nhiếp Đại Thừa Luận nói: Tự Tính thanh tịnh có nghĩa là Tự Tính bản lai trong sạch, tức là Tự Tính chân như. Kinh Pháp Hoa nói: Các pháp từ bản lai, tự tướng thường vắng lặng.

Như Lai là một trong mười danh hiệu của tất cả Chư Phật, Như Lai nghĩa là chẳng phải từ đâu đến, mà cũng chẳng đi về đâu, biểu tượng cho Pháp Thân thường trú của Phật. Khi Phật Thích Ca còn tại thế, Ngài thường dùng danh từ Như Lai để xưng cho mình khi thuyết pháp, đó cũng là một phong cách biểu lộ sự trung thực bản lai của Ngài vậy.

 

(3) Bản Nguyện: Là các lời phát nguyện trong khi đang tu trước khi thành Phật.

 

(4) Công Đức: Chữ “Công” là việc chung, không có tư tâm, chỉ những gì được tạo lập ở bên ngoài như bố thí cúng dường, xây chùa đắp tượng Phật. Chữ “Đức” là điều thiện, là đạo lý làm người, chỉ về sự tình ở trong nội tâm như tu hành, giữ giới; ngoài không dối người trong không dối mình, ngoài biết thẹn (tàm) với người, trong biết hổ (qúi) với mình. Công Đức là có công laođạo đức đối với người, là đạo đức đối với xã hội.

 

     Đề Kinh này nói đến những thệ nguyện về các công đức cứu độ chúng sinh của Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Phật khi Ngài còn đang tu hạnh Bồ Tát trước khi thành Phật. Đây là một hạnh nguyện rộng lớn mà người Phật tử cần nghiên cứu học hỏihành trì để tiến tới giải thoát hầu đền ơn Phật hằng mong mỏi tất cả chúng sinh giải quyết cho xong vấn đề sinh tử khổ ải trầm luân.

 

GIẢI NGHĨA KINH VĂN:

 

KINH VĂN 1:

NHÂN DUYÊN NÓI KINH

 

Tôi nghe như vầy (1): Một thuở nọ, Đức Bạc Già Phạm (2) đi du hóa (3) các nước, đến thành Quảng Nghiêm. dừng nghĩ dưới cây Âm Nhạc cùng với tám ngàn vị Đại Tỳ Kheo (4), ba vạn sáu ngàn vị Đại Bồ Tát (5), các hàng Quốc Vương, Đại Thần, Bà La Môn (6), các hàng Cư Sĩ, Thiên Long Bát Bộ (7) cùng nhân, phi nhân, cả thảy đại chúng nhiều vô số, đồng vây quanh Phật cung kính thỉnh Ngài thuyết pháp.

 

GIẢI NGHĨA:

(1) Tôi nghe như vầy: Là lời của Tôn giả A NanThị Giả của Đức Phật đã nói lại những lời Phật nói chứ không phải là lời của Tôn Giả để mọi người vững lòng tin tưởng.

 

(2) Bạc Già Phạm: Do chữ Sanskrit: Bhagavat, hoặc Pàli: Bhagavà hay Bhagavant. Là một trong mười hiệu của tất cả Chư Phật, Bạc Già Phạm còn gọi là Bà già bà, Bà ga phạ đế; dịch ý là Hữu đức, Năng phá, Thế tôn, Tôn quí, tức hàm ý là người có đức lớn được đời tôn trọng. Theo Phật Địa Kinh Luận thì Bạc Già Phạm có đủ sáu nghĩa là: Tự tại, xí thịnh (công đức viên mãn tốt đẹp rực rỡ), trang nghiêm (ngay thẳng, chính trực, quy củ), danh xưng (đầy đủ công đức, hạnh nguyện, từ bi), cát tường (tốt lành) và tôn quí.

 

(3) Du hóa: du hànhgiáo hóa chúng sinh.

 

(4) Đại Tỳ Kheo: Là chỉ các bậc Tỳ Kheo đã xuất gia từ trên hai mươi ba mươi năm, gọi bằng chữ “đại” vì họ là những bậc Tỳ kheo lớn, đầy đủ đức hạnh, trí huệ và phẩm cách.

Tỳ Kheo: Là tiếng Phạn, có ba nghĩa: khất sĩ, bố ma, phá ác như sau:

1. Khất Sĩ: Người đi đến từng nhà để xin thức ăn, nhưng khất sĩ thì không phải là hạng ăn mày bình thường, cho đồ ngon hay không ngon, cho nhiều hay ít, họ cũng không quan tâm; Tỳ Kheo đi khất thực thì không nói gì cả, ai bố thí thứ gì thì mang đi, không bố thí trong tâm khôngphiền não.

Trên đường đi khất thực trong yên lặng, vị Tỳ Kheo mắt không nhìn ngang nhìn ngược, mà giữ cặp mắt nhìn xuống đường để đừng giẫm đạp chết chúng sinh nhỏ bé có thể đang bò trên mặt đường; tâm ý chỉ chú ý chính niệm trong việc hành trì như niệm Phật, trì Chú, quán sát tâm, tham thiền, v.v…. Vị Tỳ Kheo luôn luôn giữ thái độ nghiêm chỉnh uy nghi theo đúng pháp, phàm thứ gì không đúng với lễ nghi thì mắt không nhìn, tai không nghe, miệng không nói, thân tâm không vọng động.

2. Bố Ma: Tỳ Kheo luôn luôn giữ vẻ đoan nghiêm thanh tịnh nên Thiên Ma trông thấy thì kinh hãi, các loại Tà Ma Quỷ Quái thì phải lánh xa; bởi chính bao giờ cũng thắng tà.

3. Phá Ác: Người thường rất khó phá trừ các tập khí xấu, không giống như các Tỳ Kheo là những người chuyên trị việc phá trừ tập khí, chuyên sửa các lỗi lầm của mình, cải sửa điều ác thành điều thiện, do đó họ được gọi là phá ác.

 

(5) Bồ Tát: Là chỉ một vị Thánh trong Phật Giáo Bắc Truyền, nói cho đủ thì đó là « Bồ- Đề Tát- Đỏa », gọi là Bodhisattva, dịch nghĩa là «Giác Hữu Tình»; chữ hữu tình là có khí huyết, là chỉ chúng sanh. Bồ Tát là một chúng sanh đã giác ngộ về “chỉ làm việc lành không làm việc ác” nên trong hành động không còn sự vô minh nữa; Bồ Tát là một Thánh nhân trong bốn Pháp Giới Thánh (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật).

 

(6) Bà-La-Môn: Bà-La-Môn là một giai cấp được tôn trong ở Ấn Độ trong bốn giai cấp. Bà-La-Môn theo pháp tu khổ hạnh, nhưng họ cầu sinh về cõi trời, tâm tham hãy còn, tâm sân chưa hết, tâm si cũng chưa hàng phục được.

 

(7) Thiên Long Bát Bộ: Tám bộ chúng đều hộ trì cho đạo tràng của Phật là:

1. Thiên: Deva: Thiện, hưởng phúc vi diệu, chư thiên các tầng trờì Dục và Sắc giới đã từng phát nguyện ủng hộ đạo tràng của Phật.

2. Long: Na-Dà: Rồng là loại linh vật, họ tinh tấn tu hành cho có thần thông biến hóa nhưng lại làm nhiều điều ác nên có thân rồng; Rồng giữ địa luân và các cung điện cõi Trời, làm mưa v.v..., và trong số Rồng có bốn loại sinh: noãn, thai, hóa, thấp sinh khác nhau.

3. Dạ Xoa: Yaksa: Yểm-Quỷ giữ các cửa thành cõi Đạo-Lợi, các quỷ chạy rất mau, có loại chạy trên không, gọi là không hành, có loại chạy dưới đất gọi là địa hành, cũng có loại đi dưới nước gọi là thủy hành; Dạ xoa chạy nhanh như biến, chỉ cần một niệm là đi nghìn dặm, chúng có rất nhiều chủng loại khác nhau.

4. Càn Thát Bà: Grandhava: Thần Nhạc, Thần hầu Vua  Đế-Thích để ca và tấu nhạc, chơi âm nhạc hay vô cùng, mỗi khi chúng cử nhạc thì Chư Thiên đều chú ý lắng nghe đến say mê. Chúng có một nhược điểm là ưa ngửi mùi hương, Vua trời Đế-Thích có một thứ hương để chiêu dụ Càn-Thát-Bà, có mùi hương thì Càn-Thát-Bà liền tới, rồi ở đấy nhẩy múa, ca hát, tấu nhạc, nên Càn-Thát-Bà còn gọi là Thần ngửi mùi hương.

5. A Tu La: A Sura: Phi Thiên, Thần, A-Tu-La là loài hay nổi giận còn được gọi là loại phi Thiên, không phải là dân thuộc Thiên giới, không có quyền hành  như chư Thiên; tuy vậy, A-Tu-La cũng được xếp vào hàng chúng sanh của cõi lành, chúng thường giao tranh với các Thiên tướng, Thiên binh.

6. Ca Lâu La: Garuda: Chim Súy-Điểu, Chim Cánh-Vàng, có thể biến thành lớn, thành nhỏ, khi ẩn khi hiện, hai cánh soè ra đến 360,000 dặm (theo quyển Nhị-Khóa Hiệp-Giải trang 278). Có 4 loại chim bằng noãn, thai, hóa, thấp sinh,

7. Khẩn Na La: Kini Nara: Nghi Nhân (hay nghi), Nhân Phi Nhân, giống người mà có một cái sừng trên đầu, cũng là Thần đánh nhạc cho Vua Trời Đế-Thích,

8. Ma Hầu La Dà: Mahoraga: Đại Phúc-Hành, đầu rắn mình người, Thần Rắn, Địa Long Thần, Đại Mãng Thần.

 

Ghi chú: Bát bộ kể trên, nhục nhãn loài người không thể trông thấy. Hai bộ Thiên và Long, thần nghiệm khá nhất là 2 loại đứng đầu trong tám bộ, nên gọi là Thiên Long Bát Bộ. Thiên Long Bát Bộ thường hầu Phật mỗi khi Phật thuyết pháp. Nói chung Thiên Long Tám Bộ đều xuất thân từ các hạng từ tốt như chư Thiên Thần đến Ma Quỷ, đều cải tà quy chính, theo Phật, trở thành một giới bảo hộ Phật pháp.

 

     Chúng ta thấy Kinh Văn 1 ở đây nói những sự thành tựu về: sự tin tưởng (Tín), sự nghe thấy (Văn), thời gian (Thời), vị thuyết pháp giảng Kinh (Chủ thể) là Đức Phật. Địa điểm nơi giảng Kinh tại gốc cây Âm nhạc thuộc thành Quảng nghiêm (Xứ thành tựu), và có vô số chúng tham dự nghe thuyết pháp (Chúng thành tựu); tất cả biểu tượng đầy đủ nhân duyên cho buổi nói Kinh.

 

KINH VĂN 2:    (Còn Tiếp)

Ý kiến bạn đọc
20 Tháng Hai 201811:09
Khách
A di da phat
20 Tháng Chín 201703:50
Khách
Tôi muốn xem toàn bộ kinh dược sư
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26214)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27506)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27878)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26694)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31200)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20247)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22887)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30021)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21544)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20226)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22630)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20736)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30276)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28758)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34701)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44197)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35489)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22521)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21344)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20662)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24747)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37892)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19016)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19306)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21785)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20853)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35087)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32589)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28910)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43117)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34914)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43891)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37857)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21315)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43010)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48996)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39816)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53771)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36808)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40783)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49721)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47294)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27677)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27013)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27214)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24064)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20835)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22450)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25089)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25820)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22934)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22460)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21738)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23310)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21155)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
(Xem: 29866)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant