Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Khemaka: Ưng Vô Sở Trụ

21 Tháng Mười 201516:54(Xem: 12191)
Kinh Khemaka: Ưng Vô Sở Trụ

KINH KHEMAKA: ƯNG VÔ SỞ TRỤ

Nguyên Giác

 

Kinh Khemaka Ưng Vô Sở TrụPhật Giáo là đạo giải thoát, vượt bờ sinh tử, xa lìa muôn kiếp mê lầm bể khổ. Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si. Và ngài nói, chìa khóa xa lìa phiền nãotam học: giới định huệ. Như thế, cả phiền nãoxa lìa phiền não đều là tâm. Ngắn gọn, Phật Giáo là pháp tu tâm.

Câu hỏi nơi đây là, tu tâm như thế nào? Kinh Phật đã kể ra nhiều trường hợp, cho thấy có nhiều lối vào đạo. Trong đó, có ít nhất hai kinh ghi cụ thể là “giáo pháp ngắn gọn” (Dhamma in brief) chỉ đơn giản là:

Trong cái nhìn, chỉ là cái được nhìn; trong cái nghe, chỉ là cái được nghe…

Cả hai kinh ngắn gọn đều không bàn gì khác, không bảo phải tu chỉ, không bảo phải tu quán, chỉ nói hãy “sống cái như thị” (chớ có ưa hay ghét, chớ có thêm hay bớt). Đó là Kinh Bahiya (1) và Kinh Malunkyaputta (2). Đặc biệt, Kinh Bahiya cho thấy du sĩ ngoại đạo Bahiya nghe lời Đức Phật dạy xong, và giây phút sau đã đắc quả A La Hán mà không cần tới ngồi xuống, không cần hít thở chỉ với quán.

Có nghĩa là, tự trong cái thấy, cái nghe đã có sẵn giới định huệ. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn đã ghi lời ngài Huệ Năng rằng đó là tự tánh giới, tự tánh định, tự tánh huệ.

Trong Thiền sử Việt Nam cũng có lời dạy như thế. Thiền sư Thích Thanh Từ thường trích dẫn bài thơ của ngài Phước Hậu:

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,

Học hành không thiếu cũng không dư,

Năm nay nghĩ lại chừng quên hết,

Chỉ nhớ trên đầu một chữ "Như"... (3)

Chữ “Như” trong thơ của ngài Phước Hậu chính là Kinh Bahiya, là Kinh Malunkyaputta. Lối vào đạo này là cửa tâm, là không có cửa để vào, vì tức khắc các pháp đã sẵn đủ.

                                                                                          *

Có một cách tiếp cận khác, từ Kinh Kim Cang, còn gọi là Kinh Kim Cương. Đặc biệt, Kinh Kim Cang có nhiều liên hệ tới văn học Việt Nam. Vì lý do nào, Kinh Kim Cang được giới trí thức, văn nghệ sĩ VN ưa thích? Không rõ. Phải chăng lời dạy “không nên trụ vào bất kỳ sắc thanh hương vị xúc pháp nào”… là thích nghi nhất, vì giới trí thức, văn nghệ sĩ vốn rất mực nhạy cảm với sắc thanh hương vị xúc pháp, vì đó là duyên để sáng tác văn học? Không rõ.

Câu chuyện nổi bậtthi hào Nguyễn Du trong thời gian đi sứ bên Trung Hoa đầu thế kỷ thứ 19, khi hành hương Phân Kinh Thạch Đài, nhìn thấy cảnh sau ngàn năm hoang phế, đã làm bài thơ “Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài,” trorng đó có lời tâm sự:

Ngã độc Kim Cương thiên biến linh,

Kỳ trung áo chỉ đa bất minh

Cập đáo Phân Kinh Thạch Đài hạ,

Chung tri: vô tự thị chân kinh.

Dịch  nghĩa:

Ta đọc kinh Kim Cương hơn ngàn lần

Ý nghĩa uyên áo trong kinh, phần nhiều không hiểu

Tới khi đến dưới đài Phân Kinh này,

Mới biết rằng kinh không chữ mới thật là chân kinh…

Hay như, Thầy Tuệ Sỹ, trong bài viết tựa đề "Ý Nghĩa Đề Kinh Kim Cang" đăng trên tập san Pháp Luân 58, ghi nhận về sức mạnh của kinh này:

"Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, Kinh Kim cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi, và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã."

Trong khi đó, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc, trong "Gươm Báu Trao Tay," đã kể về kinh nghiệm với Kinh Kim Cang, trích:

"Một lần nọ, tôi hỏi một vị Sư “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” có phải là câu hay nhất trong kinh Kim Cang không thì Sư nhẹ nhàng bảo không, trong kinh Kim Cang câu nào cũng hay cả! Quả thật dần dần tôi cũng thấy ra kinh Kim Cang chỗ nào cũng hay cả, mà hình như ngày càng hay hơn, nhất là khi… áp dụng vào đời sống hằng ngày, đúng như Edward Conze nói. Cách viết, cách trình bày từng chữ từng câu trong kinh Kim Cang chặt chẽ, thuyết phục và nói chung là… hấp dẫn! Tôi bị cuốn hút vào Kim Cang cũng như trước kia với Tâm Kinh..." (4)

Như thế, Kinh Kim Cương như dường đã gắn liền với một phần của văn học dân tộc…


*


Kinh Kim Cương khá dài, chứa đựng nhiều lời dạy. Nơi đây, chúng ta chỉ dẫn ra một cửa vào đạo thường được nói tới: ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm.

Kinh nói, chớ nên trụ vào sắc thanh hương vị xúc pháp mà sanh tâm. Hãy giữ tâm không chỗ trụ. Tức là, chớ có trụ tâm vào bất kỳ pháp nào, như thế diệu tâm mới hiển lộ.

Chữ “sanh” đây nên hiểu là “hiển lộ” -- và không nên nghĩ là cái gì sanh ra cái gì. Cũng như gương sáng, không sanh ra cảnh gì hết, nhưng chỉ nên nói là cảnh hiển lộ ra, khi bụi không còn.

Một phiên bản rất ngắn của Kinh Kim Cương, chỉ dài chưa tới một trang, là Bát Nhã Tâm Kinh. Trong đó dạy rằng hãy quán sát năm uẩn – sắc thọ tưởng hành thức – là không, nhưng đây không phải hư vô luận, vì Tâm Kinh nói rằng quán như thế mới “viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn.”

Tới đây, chúng ta thử nêu một câu hỏi: Kinh Kim Cương thường được Phật Giáo Bắc Tông xem như giáo pháp ngắn gọn cho Thiền Tông. Quý thầy thường kể rằng, khi ngài Huệ Năng nghe ngài Hoằng Nhẫn giảng tới câu “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm” là hốt nhiên hiểu hết, không còn thắc mắc gì về Kinh Phật nữa. Nhưng lời dạy này khác hẳn lời dạy chữ “Như” ghi lại trong Kinh Bahiya.

Có nơi nào trong Tạng Pali nói rằng “ưng vô sở trụ” là pháp ngắn gọn để qua bờ sinh tử hay không? Kinh Khemaka Sutta có kể tương tự như thế. Rằng “bất kỳ uần nào trong sắc thọ tưởng hành thức không nên được nhìn như ‘cái tôi’ hay liên hệ tới ‘cái tôi’…” Nghe một môn đệ của Đức Phật nói xong như thế, khoảng 60 vị tỳ kheo lập tức đắc thánh quả -- theo các dịch giả Anh dịch và bản chú giải Tích Lan, tất cả 60 vị tỳ kheo nghe xong là đắc quả A La Hán.

Tóm gọn lại kinh này, bất kỳ uần nào cũng không là ngã (tôi) hay ngã sở (của tôi). Kinh Phật có sức mạnh tuyệt vời như thế. Vừa nghe xong, đắc thánh quả ngay. Khi nói tức khắc, có nghĩa là tự tâm đã sẵn đủ.

Năm uần là quốc độ của sự chấp thủ cái tôi, cái của tôi;  là nơi trú ẩn của chấp giữ “cái tôi” và “cái của tôi”… Trong ngũ uần, có lẽ sắc uẩn có sức lôi cuốn nhất, vì sắc uẩn bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý… và chúng ta ai cũng mắt ưa thấy đẹp, tai ưa nghe du dương…

Kinh Khemaka Sutta có nhiều điểm đặc biệt. Kinh không do Đức Phật thuyết, chỉ do ngài Khemaka trùng tuyên. Lúc đó, ngài Khemaka đã vào quả vị thánh, theo các nhà phân tích, có thể là ở quả vị Bất Lai.

Ngài Piya Tan phân tích, rằng ngay cả một vị thánh (chỉ trừ bậc A La Hán) cũng vẫn còn khái niệm về “cái tôi” nhưng không hề xem có cái tôi nào hết, không hề xem bất kỳ (hay tất cả) các uần (sắc thọ tưởng hành thức)_ hay  bất cứ những gì ngoài đó là “tôi” hay “của tôi”…

Kinh kể rằng các vị sư cao niên đang ngụ ở Ghasita’s Park, gần Kosambi, gửi nhà sư Dasaka tới thăm bệnh nhà sư trưởng lão Khemaka đang ngụ trong một cánh rừng ở Jujube Park. Nhà sư Dasaka đi tới đi lui 4 lần trong một ngày để chuyển lời nhắn giữa nhà sư Khemaka và nhóm 60 vị sư. Như thế, nhà sư Dasaka đi đường dài khoảng 2 yojanas (22.5 km = 14 miles).

Lý do chư tăng không tới thăm ngài Khemaka vì chỗ của ngài Khemaka hẹp, trong khi 60 vị sư quá đông. Cũng không thỉnh ngài Khemaka tới, vì ngài Khemaka đang bệnh nặng. Nhưng ngài Khemaka biết ước mơ trong tâm chư tăng, nên cuối cùng gượng bệnh để tới.

Kinh Khemaka có nói tới hương của hoa. Ngài Bodhi phân tích rằng nhóm 60 vị sư chưa hề đắc quả thánh nào, nên ngộ nhận rằng ngài Khemaka đã đắc quả A La Hán vì được nghe rằng ngài đã rời 5 hạ phần kiết sử (thân kiến, nghi, giới cấm thủ, tham và sân), nhưng ngài Khemaka cho biết rằng ngài tuy không chấp thủ uần nào là tôi hay của tôi, nhưng dù với thánh vị Bất Lai cũng vẫn còn “mùi hương chủ thể” – mùi hương về cái tôi dựa vào năm uần còn lảng vảng trong kinh nghiệm (Even for the non-returner, an “odor of subjectivity” based on the five aggregates still lingers over the experience).

Trong lời bình của Trưởng Lão Thi Kệ, cho biết nhà sư Dasaka trong một kiếp trước đã ra lệnh cho một vị A La Hán làm một số việc cho nên kiếp này sinh làm nô lệ, sau mới có cơ may xuất gia. Piya Tan ghi chú rằng nhà sư Dasaka bị xem là lười biếng, ưa ngủ. Trưởng Lão Thi Kệ cho biết, Đức Phật từng khiển trách nhà sư Dasaka, và rồi ngài Dasaka tinh tấnđắc quả A La Hán.

Ghi nhận rằng chỉ trong một ngày liên lạc giữa Đại sư Khemaka và nhóm 60 vị sư, ngài Dasaka đi bộ (hiểu là đi nhanh, có chỗ trong Kinh Khemaka nói là ngài Dasaka chạy) xa tới 22.5 km, nghĩa là ngài đã vượt qua thời kỳ làm biếng. Và khi được đưa vào Trưởng Lão Thi Kệ, có nghĩa là ngài Dasaka đã đắc quả A La Hán, và nhân duyên tuy không được nói minh bạch, nhưng hiểu là từ Kinh Khemaka Sutta, vì ngài Dasaka là một trong nhóm “khoảng 60 nhà sư” tức khắc đắc quả A La Hán cuối bài Kinh này.

Có một chi tiết để ghi nhận: ngay cả một vị đã đắc thánh quả thứ ba, tức quả Bất Lai, vẫn còn phảng phất dư vị khái niệm ‘Tôi là,” và Kinh này dạy rằng hãy chăm chú quan sát tâm, nhìn vào chỗ tập khởi và biến diệt – thế rồi, tự nhiên các chấp thủ “Tôi là” sẽ bị bật hết gốc rễ.

Kinh Khemaka Sutta có nhiều bản Anh dịch, hẳn cũng là vì lời dạy “vô sở trụ” (không trụ vào đâu hết, non-clinging) có sức mạnh rất là độc đáo. Nối kết các bản dịch đó sẽ ghi cuối bài này (5).


*


Sau đây là bản dịch Kinh Khemaka Sutta, chủ yếu dựa theo bản Anh dịch của Đại sư Bodhi.

 

Saṃyutta Nikāya 22
Kinh dạy về các uẩn
89. Khemaka

 

Một hôm, nhiều vị sư cao niên đang ngụ cư ở Kosambi tại Ghosita’s Park. Lúc đó, Đại sư Khemaka đang ngụ cư ở Jujube Tree Park, bệnh nặng, đau đớn, suy kiệt.

Rồi, vào buổi chiều, các vị sư cao niên rời các nơi ẩn cư, nói với Đại sư Dasaka rằng: “Bạn hiền Dasaka ơi, hãy tới Đại sư Khemaka và nói với sư: ‘Các sư cao niên nói với hiền hữu Khemaka rằng: Chúng tôi hy vọng rằng sư sẽ khỏe lại, đỡ hơn. Chúng tôi hy vọng rằng cảm thọ đau đớn của sư giảm bớt và không tăng, và rằng thọ giảm đau đó sẽ được nhận ra.’”

“Xin vâng, quý bạn hiền.” Đại sư Dasaka đáp, và đi tới gặp Đại sư Khemaka và nói lời nhắc.

Đại sư Khemaka trả lời: “Quý bạn ơi, tôi không thấy đỡ chút nào. Cảm thọ đau đớn đang tăng mạnh hơn trong tôi, không giảm, và thọ đau tăng này, không phải giảm, được nhận ra (tuệ tri).”

Đại sư Dasaka trở lại các vị sư cao niên, nói lời Đại sư Khemaka đã nói. Các sư cao niên nói với Đại sư Dasaka: “Bạn Dasaka ơi, hãy tới sư Khemaka và nói: ‘Các sư cao niên nói với ngài, hiền hữu Khemaka. Nhóm năm uẩn này ưa làm chấp thủ (subject to clinging), bạn ơi, Đức Phật đã nói như thế; rằng sắc uẩn ưa làm chấp thủ, thọ uẩn ưa làm chấp thủ, tưởng uẩn ưa làm chấp thủ, hành uẩn ưa làm chấp thủ, thức uẩn ưa làm chấp thủ. Đại sư Khemaka có xem bất cứ thứ gì như là ngã  hay ngã sở trong nhóm năm uần ưa làm chấp thủ này không?”

“Vâng, quý bạn hiền,” Đại sư Dasaka trả lời, và tới Đại sư Khemaka và nói lời nhắn.

Đại sư Khemaka trả lời: “Nhóm năm uần này ưa làm chấp thủ đã được Đức Phật nói tới; rằng, sắc uẩn ưa làm chấp thủ… thức uẩn ưa làm chấp thủ. Trong nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ, tôi không xem bất cứ gì là tôi hay của tôi.”

Rồi Đại sư tới các vị sư cao niên và nói lại những lời Đại sư Khemaka nói. Họ trả lời: “Đại sư Dasaka ơi, hãy tới Đại sư Khemaka và nói với ngài: ‘Các sư cao niên nói với hiền huynh Khemaka rằng: huynh ơi, nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ đã  được Đức Phật nói tới; rằng, sắc uẩn ưa làm chấp thủ… thức uẩn ưa làm chấp thủ. Nếu Đại sư không xem bất cứ gì trong nhóm năm uần ưa làm chấp thủ như là ngã hay ngã sở, rời thì ngài là một vị A La Hán, người đã phá hủy mọi phiền não.”

“Xin vâng,” Đại sư Dasaka trả lời, và tới Đại sư Khemaka và nói lại như thế.

Đại sư Khemaka trả lời: “Nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ này đã được Đức Phật nói tới; rằng sắc uẩn ưa làm chấp thủ… thức uẩn ưa làm chấp thủ. Tôi không xem bất cứ gì trong nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ là ngã (tôi) hay ngã sở (của tôi), nhưng tôi chưa là một vị A La Hán, bậc đã phá hủy mọi phiền não. Các bạn ơi, khái niệm ‘Tôi là’ vẫn chưa biến mất trong tôi trong liên hệ tới nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ này, nhưng tôi không xem bất cứ gì trong đó là ‘Đây tôi là.’”

Rồi, Đại sư Dasaka tới các vị sư cao niên, và kể lại những gì Đại sư Khemaka đã nói. Các sư trả lời: “Bạn Dasaka ơi, hãy tới Đại sư Khemaka và nói với ngài: ‘Các sư cao niên nói với ngài, hiền huynh Khemaka: Hiền huynh Khemaka, khi nài nói về cái “Tôi là” – cái gì mà huynh nói về như “Tôi là” chớ? Ngài nói về sắc như “Tôi là,” hay ngài nói về “Tôi là” xa lìa khỏi sắc? Ngài nói về thọ… về tưởng… về hành… về thức như “Tôi là,” hay ngài nói về “Tôi là” xa khỏi thức? Khi huynh nói về cái “Tôi là,” huynh Khemaka ơi, cái gì là cái huynh nói về như là “Tôi là”?”

“Xin vâng,” Đại sư Dasaka  trả lời, và tới Đại sư Khemaka và nói lại như thế.

“Đủ rồi, huynh Dasaka ơi! Tại sao huynh cứ chạy mãi tới lui? Mang gậy của tôi tới nhé, huynh ơi. Tôi sẽ tự tới gặp các sư cao niên.”

Rồi, Đại sư Khemaka, chống gậy, tới gặp các sư cao niên, nói lời chào mưng, và ngồi xuống một bên. Các sư cao niên nói với ngài: “Huynh Khemaka ơi, khi ngài nói về cái ‘Tôi là’… cái gì ngài đang nói về như là ‘Tôi là’?”

“Các huynh ơi, tôi không nói về sắc như ‘Tôi là,’ cũng không nói về ‘Tôi là’ xa lìa khỏi sắc. Tôi không nói về thọ như ‘Tôi là’… cũng không về tưởng như ‘Tôi là’… cũng không nói về hành như ‘Tôi là’… cũng không nói về thức như ‘Tôi là,’ cũng không nói về ‘Tôi là’ xa lìa khỏi thức. Các huynh ơi, mặc dù khái niệm ‘Tôi là’ chưa biến mất trong tôi liên hệ tới năm uẩn này ưa làm chấp thủ, tôi vẫn không xem bất cứ thứ gì trong chúng như ‘Đây tôi là.’

“Các huynh ơi, hãy giả dụ như có mùi hương của một bông sen xanh, đỏ hay trắng. Có ai sẽ nói là đúng nếu người đó sẽ nói, “Mùi hương là thuộc vào các cánh hoa,’ hay ‘Mùi hương là thuộc vào cọng hoa,’ hay ‘Mùi hương là thuộc vào nhụy hoa’?”

“Không phải, huynh ơi.”

“Và như thế nào, các huynh ơi, để trả lời nếu muốn trả lời cho đúng?”

“Huynh ơi, trả lời cho đúng thì  nên là: “Mùi hương là từ hoa.”

“Quý huynh ơi, cũng như thế, tôi không nói về sắc như ‘Tôi là,’ không nói về ‘Tôi là’ xa lìa khỏi sắc. Tôi không nói về thọ như ‘Tôi là’… không về tưởng như ‘Tôi là’… không nói về hành như ‘Tôi là’… không nói về thức như ‘Tôi là,’ không nói về ‘Tôi là’ xa lìa khỏi thức. Quý huynh ơi, mặc dù khái niệm ‘Tôi là’ chưa biến mất trong tôi trong liuên hệ tới năm uẩn này ưa chấp thủ, tôi vẫn không xem bất cứ gì trong chúng như là ‘Đây tôi là.’

“Quý huynh ơi, mặc dù một vị thánh đệ tử đã rời bỏ năm hạ phần kiết sử, dù vậy trong liên hệ tới năm uẩn ưa làm chấp thủ, vẫn còn lảng vảng trong vị đó khái niệm sót lại ‘Tôi là,’ một thèm muốn ‘Tôi là,’ một khuynh hướng ẩn tàng ‘Tôi là’ mà chưa bị nhổ hết gốc rễ. Có lúc nào sau đó, vị này chú tâm quan sát sự tập khởi và biến diệt trong nhóm năm uần ưa chấp thủ: “Sắc như thế, khởi lên như thế, biến diệt như thế; thọ như thế… tưởng như thế… hành như thế… thức như thế, khởi lên như thế, biến diệt như thế.’ Khi vị này chú tâm quan sát sự tập khởi và biến diệt trong năm uẩn ưa chấp thủ, khái niệm sót lại của ‘Tôi là,’ cái tham muốn ‘Tôi là,’ cái khuynh hướng ẩn tàng ‘Tôi là’ trước đó chưa bị nhổ hết gốc rễ -- lúc đó sẽ bị nhổ bật gốc rễ.

“Các huynh ơi, hãy giả như một tấm vải dính đất và có vết bẩn rồi, và chủ tấm vải đưa cho người thợ giặt. Người thợ giặt sẽ chà sát vải bằng muối giặt, nước tẩy, hay phân bò, và xả bằng nước sạch. Mặc dù rằng tấm vải sạch và tinh tuyền lại, nó sẽ vẫn còn phảng phất mùi sót lại của muối giặt, nước tẩy hay phân bò trước đó chưa biến mất đi. Người thợ giặt sẽ trao vải lại cho người chủ. Người chủ sẽ cất vào một hòm ủ mùi hương, và mùi sót lại của muối giặt, nước tẩy hay phân bò trước đó chưa biến mất rồi sẽ biến mất.

“Quý huynh ơi, cũng như thế, mặc dù một thánh đệ tử đã rời bỏ năm hạ phần kiết sử, nhóm năm uẩn ưa làm chấp thủ vẫn còn phảng phất trong vị đó khái niệm còn sót lại ‘Tôi là,’ một niềm tham muốn ‘Tôi là,’ một khuynh hướng ẩn tàng ‘Tôi là’ mà vẫn chưa bị nhổ bật gốc rễ… Khi vị này chú tâm quan sát sự tập khởi và biến diệt trong năm uẩn ưa làm chấp thủ, khái niệm sót lại ‘Tôi là,’ niềm tham muốn ‘Tôi là,’ khuynh hướng ẩn tàng ‘Tôi là’ trước đó chưa bị nhổ bật gốc rễ -- lúc đó sẽ bị nhổ bật gốc rễ.”

Khi nghe thế, các vị sư cao niên nói với Đại sư Khemaka: “Chúng tôi không nêu câu hỏi để làm bận tới Đại sư Khemaka, nhưng chúng tôi nghĩ rằng Đại sư Khemaka có khả năng giải thích, giảng dạy, tuyên thuyết, thiết lập, làm sáng tỏ, phân tích và làm dễ hiểu lời dạy của Đức Phật một cách chi tiết. Và Đại sư Khemaka đã giải thích, giảng dạy, tuyên thuyết, thiết lập, làm sáng tỏ, phân tích và làm dễ hiểu lời dạy của Đức Phật một cách chi tiết.”

Đó là những gì Đại sư Khemaka đã nói. Các vị sư cao niên vui mừng, hạnh phúc khi nghe Đại sư Khemaka tuyên thuyết. Và trong khi kinh này được tuyên thuyết, tâm của 60 vị sư cao niên, và của Đại sư Khemaka được giải thoát toàn triệt nhờ tâm không chỗ trụ, tâm không bám dính.

 

GHI CHÚ:

(1) Kinh Bahiya. Xem : http://thuvienhoasen.org/a14273/bai-phap-khan-cap-bahiya-sutta 

(2) Kinh Malunkyaputta. Xem: http://thuvienhoasen.org/a23653/kinh-malunkyaputta-va-giao-phap-ngan-gon

(3) Tiến Thẳng Vào Thiền Tông. Xem:

http://www.thuong-chieu.org/uni/KinhSachThiKe/Thien/TienThangVaoThienTong/Html/05.htm

(4) Ưng Vô Sở Trụ Nhi Sanh Kỳ Tâm. Xem: http://thuvienhoasen.org/a17122/ung-vo-so-tru-nhi-sanh-ky-tam  

(5) Các bản Anh dịch Kinh Khemaka Sutta.

Bản Thanissaro Bhikkhu:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.089.than.html

Bản Maurice O'Connell Walshe:

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn22/sn22.089x.wlsh.html

Bản Bhikkhu Bodhi:

https://suttacentral.net/en/sn22.89

Bản Piya Tan:

http://dharmafarer.org/wordpress/wp-content/uploads/2009/12/14.13-Khemaka-S-s22.89-piya.pdf

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10402)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12359)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11664)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28832)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12065)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13020)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11462)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12387)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17458)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53089)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35499)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21414)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10686)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19263)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12429)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26058)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13329)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14395)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16099)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13738)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16856)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17598)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13142)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12545)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11620)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11632)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14518)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20496)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19002)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19595)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18674)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12202)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12332)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13876)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15047)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15050)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14004)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15532)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11411)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17206)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14988)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20228)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14631)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13863)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11720)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15077)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13007)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22904)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14571)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11677)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13179)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16894)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18355)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11952)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11512)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15861)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12897)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18930)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18440)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15793)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant