Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 5: Ca Diếp

03 Tháng Chín 201607:57(Xem: 5353)
Phẩm 5: Ca Diếp

KINH ĐẠI BI

Tam tạng pháp sư Na Liên Đề Da Xá, người nước Thiên-trúc, 
dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, 
vào thời Cao-Tề (Bắc-Tề, 550-577).
Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn,
tại Canada, năm 2016.

 
KINH ĐẠI BI

 Phẩm 5

CA DIẾP

 

Lúc bấy giờ, tôn giả A Nan đang ở bên giường của đức Phật, đau buồn, khóc lóc, nước mắt ràn rụa, đứng không muốn vững, than rằng:

“Đức Thế Tôn nhập niết-bàn sớm quá! Đấng Đại Từ Bi, viên ngọc quí của chúng sinh, ra đi sớm quá! Ngọn đèn lớn của thế gian, cây đuốc lớn của trời người, ẩn mất sớm quá! Hoa sen quí của chúng sinhthế gian ẩn mất sớm quá! Bậc long tượng của chúng sinh, bậc khéo tự điều phục, lại điều phục những chúng sinh chưa được điều phục, ra đi sớm quá! Đấng Đạo Sư vô thượng, chỉ bày cho chúng sinh con đường an ổn, ra đi sớm quá! Con mắt trí tuệ chiếu ánh sáng lớn, soi khắp thế gian, ẩn mất sớm quá! Bậc dẫn đường cho những kẻ mù lòa, bậc cha mẹ của chúng sinhthế gian, diệt độ sớm quá! Thế gian này trở thành cô độc, không nơi nương tựa! Viên ngọc quí của chúng sinh như thế, mà ngày mai con không còn trông thấy nữa, chỉ có danh hiệu là còn lưu lại mà thôi!”

Đức Phật bảo tôn giả A Nan:

“Này A Nan, thầy đừng đau buồn nữa! Như Lai đã từng bảo thầy, tất cả những gì, dù ưa thích, xứng ý đến đâu, đã có hòa hợp thì chắc chắn phải có lìa tan. Này A Nan! Các pháp hữu vi, pháp sinh, pháp có, pháp hiểu biết, pháp nhân duyên, pháp hoại diệt, những pháp ấy nếu không hoại diệt thì không có lẽ đó; những pháp ấy nếu thường trú thì cũng không có lẽ đó; giả sử những pháp ấy được tồn tại lâu dài thì chắc chắn cũng có lúc phải chia lìa. Vì vậy cho nên, này A Nan, thầy chớ lo buồn!”

Lúc ấy tôn giả A Nan chiêm ngưỡng dung nhan đức Thế Tôn, mắt nhìn chăm chú không rời; rồi lại suy nghĩ, lại đau buồn, khóc lóc, nghẹn ngào; rồi quì xuống đất. Đức Phật lại bảo:

“Thôi đi, này A Nan, thầy đừng đau buồn nữa! Đừng dùng sự đau buồn để khiến cho Như Lai trụ thế! Này A Nan! Như Lai đã từng bảo thầy, tất cả những gì, dù ưa thích, xứng ý đến đâu, đã có hòa hợp thì chắc chắn phải có lúc lìa tan; giả sử chúng được tồn tại dài lâu thì cũng phải hoại diệt. Các pháp hành là như vậy. Này A Nan! Thầy đã hầu hạ Như Lai, từ hành động cho đến lời nói, đều bằng tâm từ hiếu, an lạc, trước sau như một, không chút giận hờn, oán trách.”

Tôn giả A Nan đứng dậy, lau nước mắt, bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Làm sao con có thể không đau buồn! Đức Thế Tôn, bậc đại từ bi như thế, bậc đã ra khỏi thế gian, bậc thương xót tất cả thế gian, bậc được tất cả thế gian quí kính và quay về nương tựa, bậc dẫn đường cho tất cả thế gian, bậc làm lợi íchan lạc cho tất cả thế gian, bậc tôn quí của thế gian như thế, mà ngày mai con phải chia lìa!”

Tôn giả lại khóc lớn, rồi lại lau nước mắt, bạch rằng:

“Kì lạ thay, các hành chỉ là xác chếttrở thành đầy quyền năng, có thể khiến cho ngọn đèn lớn như thế, cây đuốc lớn như thế, mặt trời lớn với vô lượng ánh sáng rực rỡ như thế, ẩn mất sớm quá! Bậc trí tuệ lớn, bậc có ánh sáng lớn, ẩn mất ở thế gian sớm quá! Thế gian bây giờ cô độc, vì bậc che chở ra đi sớm quá! Đức Như Lai đầy đủ thần thông biến hóa, nay ẩn mất ở thế gian sớm quá! Bạch đức Thế Tôn, con làm sao mà không đau buồn! Bạch đức Thế Tôn, con còn tự lấy làm lạ rằng, sao trái tim của con hôm nay không bị bể nát thành trăm mảnh! Con cũng tự lấy làm lạ rằng, sao con không chết ngay trước mặt đức Thế Tôn! Chắc chắn là con đã nhờ thần lực của đức Thế Tôn gia trì; vì sao vậy? Vì chính con đã thọ nhận kho tàng Pháp Bảo do đức Thế Tôn trao truyền, ghi nhớ không quên; mà kho tàng Pháp Bảo đó lại chưa được lưu bố rộng rãi cho hàng trời, người khắp mười phương. Bạch đức Thế Tôn, con làm sao mà không đau buồn cho được!  Bạch đức Thế Tôn! Mai kia con trở về thành Ca-tì-la-vệ, mọi người trong dòng họ Thích tập họp lại, hỏi thăm về đức Thế Tôn, con biết nói làm sao với họ đây? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni dòng giống Mặt-trời, đấng Pháp Vương vô thượng, bậc tôn quí trong dòng họ Thích, đã nhập niết-bàn rồi! Rồi khi đến thành Vương-xá, con sẽ nói thế nào với vua A Xà Thế? Con đâu có thể cam lòng nói với đức vua rằng, bậc Đạo Sư đã ra đi rồi, vị Y Vương có khả năng nhổ bỏ mũi tên nghiệp vô gián cho thế gian đã ẩn mất rồi! Rồi khi đến thành Xá-vệ, con sẽ nói thế nào với dân chúng trong thành? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, đấng Đại Bi thương xót thế gian đã ẩn mất rồi! Rồi khi con đến tinh xá Cấp-cô-độc trong vườn cây Kì-đà, nếu đại chúng hỏi: [Chừng nào đức Thế Tôn trở về tinh xá này?], thì con biết trả lời ra sao! Rồi khi đến thành Tì-xá-li, con sẽ nói làm sao với các vị công tử tộc Li-xa? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, bậc Tôn Sư cao cả thương xót tất cả thế gian đã ẩn mất rồi! Rồi khi có các thiện nam tín nữ từ các nơi đến hỏi, con biết trả lời cho họ làm sao? Con đâu có thể cam lòng nói với họ rằng, đấng Đại Trí của thế gian, bậc đã đoạn trừ tất cả mọi nghi hoặc, nay đã ra đi rồi! Rồi khi có các chúng tì-kheo từ các nơi xa đến, mong muốn được trông thấy đức Thế Tôn, hoặc để hỏi thăm, lễ bái, cúng dường; hoặc để hỏi pháp, hỏi giáo nghĩa; hoặc xin bố-tát; con đành phải nói với họ rằng: [Tôi không còn thấy, không còn nghe đức Thế Tôn nói pháp của các bậc thượng nhân nữa!] Sau khi đức Thế Tôn diệt độ, có những bậc tu hành phạm hạnh, đầy đủ thần thông, cũng sẽ ẩn mất ở thế gian. Cho nên con đâu có thể nào mà không đau buồn!”

Tôn giả A Nan bạch xong những lời ấy, đức Phật dạy:

“Này A Nan, thầy đừng đau buồn nữa! Giáo pháp của Như Lai cần được lưu bố rộng rãi, tồn tại lâu dàithế gian để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan! Sau khi Như Lai diệt độ, trải qua bốn trăm năm, thầy Ca Diếp cùng với thầy và các đệ tử, truyền nối nhau tu hành phạm hạnh để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Này A Nan, thầy không nên đau buồn! Chánh pháp của Như Lai cần phải được lưu bố rộng rãi, tồn tại lâu dàithế gian để làm lợi ích cho các hàng trời, người. Sau khi Như Lai nhập niết-bàn, thầy Ca Diếp cùng với thầy, nên phát tâm làm cho pháp bồ-đề vô thượngNhư Lai đã tích tập từ vô số kiếp được hưng thịnh, không suy mất. Vì sao vậy? Này A Nan! Thầy Ca Diếp là người ít ham muốn, biết đủ, xa lìa dục vọng, chuyên cần tinh tấn, luôn có chánh niệm, không hí luận, an trú trong định tuệ. Này A Nan! Thầy Ca Diếp có khả năng chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi, giống như cha mẹ đối với con cái. Này A Nan! Thầy Ca Diếp thấy biết sâu rộng, thương xót thế gian, vì muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, an lạc cho trời, người, mà phát tâm như thế.”

Bấy giờ tôn giả A Nan bạch Phật rằng:

“Bạch đức Thế Tôn! Tôn giả Ca Diếp phát tâm như thế sẽ đem lại lợi ích an lạc cho bao nhiêu chúng trời, người?”

Đức Phật dạy:

“Thầy Ca Diếp lúc nhập niết-bàn sẽ phát nguyện rằng: [Tôi nguyện, sau khi tôi diệt độ, do thần lực của chính tôi gia trì, khiến cho xác thân tôi và y bát không bị biến hoại. Chờ cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời, chính thân này sẽ diện kiến Ngài, cùng phụ giúp Ngài lập nên pháp hội thứ nhất; rồi đến pháp hội thứ nhì, pháp hội thứ ba, do nguyện lực của tôi gia trì, khiến cho nhiều trăm chúng sinh, nhiều ngàn chúng sinh, nhiều ngàn vạn chúng sinh, vô số chúng sinh chứng quả Thánh. Đức Phật Di Lặc đã thấy thân tôi và y bát không bị biến hoại; chúng Thanh-văn trong cả ba pháp hội cũng đã thấy thân tôi và áo ca-sa không bị biến hoại. Bấy giờ thân tôi sẽ đứng trên hư không, dùng lửa của chính thân mình mà thiêu thân mình. Thiêu xong rồi thì tro cốt biến mất hết.] Này A Nan! Đó là thầy Ca Diếp phát tâm làm lợi ích an lạc cho chúng sinh. Này A Nan! Chính do nguyện lực gia trì mà sau khi thành thục cho chúng sinh rồi thì thầy Ca Diếp nhập niết-bàn. Liền lúc đó, có bốn ngọn núi đá kéo đến, hiệp lại làm một để che phủ xác thân của thầy Ca Diếp. Và như thế, xác thân của thầy Ca Diếp được giữ ở giữa bốn ngọn núi đá kia, không bị biến hoại, cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời. Thân của thầy Ca Diếp tồn tại lâu dài như thế mà không bị biến hoại, và cả tấm áo ca-sa cũng không bị biến hoại, là vì sao vậy? Này A Nan! Vì thầy Ca Diếp là người giữ giới thanh tịnh, là người tu hành phạm hạnh, là người có trí tuệ, cho nên tâm nguyện mới được thành tựu; nếu không giữ giới thanh tịnh, không tu phạm hạnh, không có trí tuệ, thì dù có muốn cũng không thể thành tựu được gì. Này A Nan! Thầy Ca Diếp, trước tiên do nguyện lực mà nhập niết-bàn; nhập niết-bàn rồi thì xác thân tồn tại lâu dài không bị biến hoại, tóc lông máu thịt, các căn, và cả y phục cũng không bị biến hoại, cũng không hôi hám, cho đến khi đức Phật Di Lặc ra đời. Này A Nan! Khi đức Phật Di Lặc ra đời, ở pháp hội thứ nhất, Ngài sẽ dẫn chín mươi sáu ức vị tì-kheo đến chỗ thầy Ca Diếp, chỉ cho đại chúng thấy thân của thầy Ca Diếp, và dạy rằng: [Này các thầy tì-kheo! Thầy Ca Diếp đây là bậc đại Thanh-văn trong thời kì pháp vận của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyên tu hạnh đầu-đà, ít ham muốn, biết đủ, xa lìa dục vọng, chuyên cần tinh tấn, luôn có chánh niệm, không hí luận, an trú trong định tuệ. Thầy Ca Diếp có khả năng chỉ bày, dạy dỗ, khiến cho đại chúng đạt được lợi lạc, và hoan hỉ với các thành tựu của đại chúng; đối với những người tu hành phạm hạnh thì nói pháp không biết mệt mỏi, giống như cha mẹ đối với con cái. Này các thầy tì-kheo! Thầy Ca Diếp thấy biết sâu rộng, rốt ráo không còn tâm nghi ngờ, và tùy thuận chúng sinh. Này các thầy tì-kheo! Các thầy hãy xem đó, thầy Ca Diếpthương xót thế gian, muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, an lạc cho trời, người, mà phát tâm như thế.] Này A Nan! Ở pháp hội thứ nhì, đức Phật Di Lặc sẽ dẫn chín mươi bốn ức vị tì-kheo đến chỗ thầy Ca Diếp. Đến pháp hội thứ ba, Ngài sẽ dẫn chín mươi hai ức vị tì-kheo đến chỗ thầy Ca Diếp, chỉ thân của thầy cho đại chúng xem, và dạy rằng: [Này các thầy tì-kheo! Thầy Ca Diếp đây là bậc đại Thanh-văn trong thời kì pháp vận của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chuyên tu hạnh đầu-đà, thiểu dục, tri túc, vì muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh, an lạc cho trời, người, mà phát tâm như thế.] Này A Nan! Lúc bấy giờ, đức Phật Di Lặc đưa cánh tay phải ra, rờ trên đầu thầy Ca Diếp, rồi nhìn khắp các vị tì-kheo, nói rằng: [Này các vị tì-kheo! Tì-kheo Ca Diếp đây đã gìn giữ chánh pháp sau khi đức Phật Thích Ca Mâu Ni diệt độ; còn trong khắp đại chúng ở đây, sẽ không có một vị nào gìn giữ chánh pháp của ta sau khi ta diệt độ, giống như thầy Ca Diếp!] Này A Nan! Ở pháp hội thứ ba của đức Phật Di Lặc, thầy Ca Diếp, do nguyện lực của chính mình gia trì, sẽ ở trên không trung, biểu hiện nhiều thứ thần thông biến hóa, rồi dùng lửa của tự thân mà thiêu hủy thân mình; thân xác cháy xong, tro cốt đều biến mất. Sau khi cho đại chúng chứng kiến các sự việc về thầy Ca Diếp, Đức Phật Di Lặc bèn nói pháp cho đại chúng hiện tiền, khiến cho nhiều trăm ngàn ức người, được chứng quả Thánh. Này A Nan! Thầy Ca Diếp phát tâm làm lợi ích cho nhiều chúng sinh, thầy cũng nên phát tâm làm lợi ích, đem lại an lạc cho nhiều chúng sinh. Như thế, này A Nan! Thầy Ca Diếp cùng với thầy hãy phát tâm giữ gìn chánh pháp tồn tại qua bốn trăm năm, tu hành phạm hạnh, làm lợi ích cho hàng trời, người.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13743)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25450)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13823)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15154)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17759)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17147)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14262)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13236)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14493)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19828)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16795)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18685)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19125)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18944)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21206)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14832)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39222)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14465)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19450)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14771)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16193)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14753)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15263)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14974)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15608)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39229)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14182)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24588)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14449)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19512)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18080)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21519)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19736)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17573)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14895)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13944)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13819)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14178)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21962)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16788)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15275)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14591)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14109)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14399)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15716)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14367)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15088)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18624)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24726)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23163)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28627)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15097)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14158)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14710)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18374)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26579)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15251)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14895)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15246)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15221)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant