Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Di Giáo dịch thơ

17 Tháng Chín 201000:00(Xem: 27318)
Kinh Di Giáo dịch thơ

Kinh Di Giáo

Thành Tâm-Phan Khắc Nhượng dịch thơ



Lúc Đức Phật Thích-ca chứng đắc,

Chuyển bánh xe chánh pháp độ sanh,

Kiều-trần-như được duyên lành,

Năm anh em họ viên thành lý chân,

Suốt đời sống xa gần phổ độ,

Người cuối cùng Phật độ chính là,

Ông già Tu-bạt-dà-la.

Ở rừng cây những Sa-la ngát vùng,

Người đáng độ đã từng được độ,

Đã đến hồi Phật bỏ sắc thân,

Niết bàn thế nhập xuất trần,

Nửa đêm yên ắng lặng tăm khắp trời.

1. Phật lên tiếng ra lời cốt lõi,

Để môn đồ mỗi mỗi soi đi,

Phật rằng: Này các tăng ni,

Sau tôi nhập diệt, nhớ ghi mấy điều:

Coi giới tựa người nghèo được của,

Như tối mù, mở cửa sáng ra,

Phải coi giới luật như là,

Người thày chỉ lối, khỏi sa lạc đường.

Giống như thể ta đương tại thế,

Phật ra đời cốt để vậy thôi,

Phải luôn giữ giới chớ rời:

Mướn người, buôn bán, chăn nuôi, chớ làm.

Chớ thu vén mùa màng, nhà cửa,

Chớ đua đòi tiền của nhân gian,

Chặt cây diệt cỏ chớ làm,

Chiêm tinh bói toán lại càng nên xa.

Chớ xem tướng hoặc là xem đất,

Luôn giữ mình chừng mực uống ăn,

Việc đời chớ thích để tâm,

Chú bùa, phụ nữ thân gần không nên.

Phải tâm niệm đoan nghiêm chánh trực,

Phải mong sao cho được độ mình,

Lỗi lầm che dấu không nên,

Chớ bày phép lạ cầu tin nơi người.

Với cúng thí biết vui vừa đủ,

Vật cúng dường tích trữ nào nên,

Đó là đôi chuyện giới nghiêm,

Cội căn giải thoát tự nền giới ra.

Giữ giới được mới qua thiền định,

Giới khơi dòng trí tuệ thâm uyên,

Khả năng diệt sự não phiền,

Nên cần mọi sự giữ gìn sạch trong.

Người phá giới đừng hòng công đức,

Giới là nơi công đức gửi vào,

Là nơi yên ổn hàng đầu,

Mọi điều công đức vin vào náu nương.

Các tăng ni, phải luôn thọ giới,

Năm căn cần giữ khỏi buông lung,

Giống như trâu phải canh chừng,

Cầm roi chớ để trâu ruồng lúa ai.

Như ngựa dữ không nài cương chặc,

Hẳn đưa người xuống vực chẳng chơi;

Cướp kia gieo khổ một thời,

Năm căn gieo họa bao đời ai hay.

Biết rõ mối nguy tai trầm trọng,

Chẳng thể không cẩn thận giữ gìn;

Với người trí tuệ nghiêm minh,

Năm căn đâu dễ xui mình chiều theo.

Giữ giới tựa giữ điều giặc dã,

Không thể nào buông thả được đâu;

Dù cho thỏa mãn cách nào,

Năm căn: (năm cửa) bao lâu mà còn.

Năm cửa bởi vọng lòng làm chủ,

Các ông nên khéo giữ vọng lòng;

Vọng lòng đáng sợ vô cùng,

So cùng nọc rắn miệng hùm khác chi.

Dẫu giặc lửa dễ gì sánh kịp,

Như người cầm chén mật mà đi,

Chăm chăm sợ đổ chứ gì,

Dưới chân nào biết một khi có hầm.

Như voi dữ phải cần móc sắt,

Nếu không thì hết sức hiểm nguy,

Giống như vượn khỉ khác chi,

Được cây chuyền bám dễ gì yên chân.

Giữ lòng an định rất cần,

Việc lành dù mấy khó khăn cũng thành.

Với thức ăn khi mình nhận được,

Phải coi dường uống thuốc vậy thôi,

Chẳng gì dở miệng ngon mùi,

Thứ ngon không thích dở thời không chê.

Miễn sao được khỏi bề đói khát,

Miễn sao là thể xác không nguy,

Miễn sao yên dạ tu trì,

Như ong hút mật chẳng hề hại hoa.

Chẳng phương hại sắc hoa tươi đẹp,

Tăng ni khi thọ thực cúng dường,

Cốt trừ khổ não tai ương,

Cầu nhiều phương hại lòng thương người đời,

Giống như thể những người trí tuệ,

Chẳng khiến trâu kiệt quệ làm nhiều.


Nghe đây hỡi các tăng ni,

Siêng năng tu tập thường đi pháp lành.

Đem năm canh giữ mình chớ bỏ,

Tụng kinh hầu tránh ngủ nửa đêm.;

Chớ vì ngủ nghỉ lãng quên,

Để đời vô ích êm đềm trôi luôn.

Hãy nhớ lửa vô thường đương đốt,

Hãy mau mau cứu vớt lấy mình,

Chớ ham ngủ nghỉ thường tình,

Não phiền rình rập giết mình như không.

Như kẻ thù vô cùng nguy hiểm,

Phải luôn luôn thức tỉnh đề phòng;

Não phiền rắn độc tương đồng,

Hiện đang ngủ nghỉ trong lòng các ông.

Nhà có rắn phải dùng móc sắt,

Móc giới vào đuổi phứt chúng đi.

Rắn ra ngủ mới yên bề.

Rắn còn mà ngủ còn chi thẹn bằng.

Biết thẹn tựa áo quần trang phục,

Cốt che người cho được trang nghiêm;

Khác nào móc sắt câu liêm,

Trị điều phi pháp đừng liên lụy mình.

Vậy tăng ni phải nên biết thẹn,

Mới mong lìa bất thiện dễ duôi,

Bỏ lòng biết thẹn ra rồi,

Bao nhiêu công đức đồng thời tiêu ma.

Có pháp lành chẳng qua biết thẹn,

Không thẹn thì thú vật khác chi.

Tăng ni ! Nếu kẻ nào vì,

Có gì xúc phạm có gì nhiễu nhương.

Ngay cả bị tổn thương thân thể,

Hãy kềm lòng chớ để hờn căm,

Lửa hờn đốt cháy thiện căn,

Giữ gìn không để nói năng độc mồm.

Lòng chớ để nổi cơn tức bực,

Khiến cho nhiều công đức tiêu tan.

Giới trì khổ hạnh đâu bằng,

Người từng nhẫn nhục thượng nhân đáng hàng.

Ai chưa thể vui cam nhẫn nhục,

Chịu miệng đời ác độc dồn cho,

Coi dường uống nước cam lồ,

Chưa là trí tuệ hống hồ thánh nhân.

Vì tức giận muôn phần nguy hại,

Phá căn lành hủy hoại lòng từ,

Đời này đời trước chẳng trừ,

Giận hờn còn giữ bao giờ vui đâu.

Biết tức giận khác nào lửa dữ,

Phải thường xuyên gìn giữ khỏi lòng.

Giặc ruồng công đức sánh cùng,

Do thì sân hận vẫn còn hơn xa.

Người thế tục chưa xa dục lạc,

Nên giận hờn còn được thứ tha;

Là người hành đạo xuất gia,

Đã rời dục lạc vậy mà hận sân;

Người như vậy thực tâm không đặng,

Có khác gì trời tạnh mây quang,

Bỗng dưng sấm động sét vang,

Rõ ràng chẳng xứng với màn trời xanh.

Này tăng ni ! muốn mình thành Phật,

Bỏ cửa nhà trang phục xuất gia;

Khoác vào chiếc áo cà-sa,

Mong cầu khắp nẻo gần xa cúng dường.

Chớ có ý đương đương tự đắc,

Cao ngạo gì cũng dứt nó đi,

Xuất gia vào đạo rồi thì,

Mong người bố thí từ bi cúng dường.

Người thế tục còn buông cao ngạo,

Huống chi là vào đạo xuất gia;

Mong cầu giải thoát nhớ là,

Hạ mình đây đó người ta cúng dường.

Này tăng ni ! Cái lòng xiểm xúc,

Trái đạo thì hãy vứt nó đi;

Dối gian súc xiểm còn thì,

Bao giờ thấy đạo diệu vi sáng đường.

Phải giữ gìn lòng luôn đoan chính,

Lấy thật thà gốc định thẳng ngay;


8. Tăng ni ! Nên biết thế này:

Mong cầu, ham muốn cho hay đừng nhiều.

Càng muốn nhiều càng điều khổ não,

Không mong cầu cứ đạo mà đi,

Mọi điều ham muốn ít thì,

Có gì đến nỗi sầu bi não phiền.

Được mỗi vậy còn nên tu tập,

Huống chi là công đức bao nhiêu;

Người mà ham muốn chẳng nhiều,

Đâu cần xu nịnh theo chiều vì ai,

Sáu căn cũng khó sai khó khiến,

Người tu hành ít muốn tâm an;

Chẳng còn sợ sệt hoang mang,

Phải hồi đến việc kiên gan đương đầu.

Không mong cầu lại hầu ít muốn,

Nết này đi sớm chứng Niêt-bàn.


9. Tăng ni muốn thoát buộc ràng,

Khỏi điều khổ não thế gian thường tình.

Hãy quán pháp tự mình biết đủ,

Biết đủ thì yên ổn vui tươi,

Đất bằng biết đủ cũng rồi,

Người không biết đủ dù nơi thiên đường.

Không biết đủ vô phương toại nguyện,

Giàu có nhưng vẫn tựa nghèo nàn,

Những người biết đủ rộng đàng,

Tuy nghèo nhưng vẫn hân hoan như giàu.

Người biết đủ dễ nào cam chịu,

Để thân vào nô lệ năm căn,

Người không biết đủ mê lầm,

Năm trò dục lạc thế trần khiến sai.

Khiến bia miệng mỉa mai chê trách,

Thật đúng là đáng xót đáng thương,

Pháp môn biết đủ rộng đường,

Cho người sớm được tỏ tường Chân Như.


Này tăng ni ! Người tu cầu đạt,

Tịch tịnh lòng an lạc vô vi,

Thế nên cần phải xa lìa,

Những nơi tụ họp hội hè huyên thuyên.

Một mình chỗ lặng yên tĩnh mịch,

Chỗ cõi trời Đề Thích, chư thiên,

Thảy đều kính trọng trang nghiêm,

Hãy nên xa chốn huyên thuyên hồng trần,

Hãy xa lánh lăng xăng hội chúng,

Để yên lòng cắt rụng khổ đau,

Tư duy trí tuệ nhiệm mầu,

Ham nhiều hội chúng khó cầu tâm yên.

Như cành cây nhiều chim quần tụ,

Hẳn có khi chuốc vạ: gãy cành,

Thế gian trói buộc giam mình,

Giữa dòng bể khổ đắm chìm đưa ra.

Như voi sa bãi sình bùn ngập

Đến bao giờ mới được thoát lên.

Đó là đức tình có tên,

‘Xa lìa’ ràng buộc nghiệp duyên hồng trần.


Này tăng ni ! Tinh cần chăm chỉ,

Chẳng việc gì không thể không xong,

Chuyên cần tinh tấn hết lòng,

Như là nước giỏ đá mòn khác chi.

Với tâm biếng nhác hành trì,

Như người cọ gỗ mong khi lửa bừng.

Gỗ chưa nóng, nửa chừng đã nghỉ,

Mong lửa mà có lửa được không?

Đó là đức tình gắng công.

Cũng là ‘Tinh Tấn’ dốc lòng không lơi.

Này tăng ni ! Cầu người tri thức,

Hay cầu ai trợ lực tận tình,

Sao bằng gìn giữ tâm mình,

Để cho vọng niệm không sinh não phiền.

Vậy tâm phải giữ gìn hết sức,

Chánh niệm rời công đức mất luôn,

Đã thành sức niệm kiên cường,

Dẫu vào giặc dục chẳng còn hề chi.

Như áo giáp mặc khi ra trận,

Được yên lòng khỏi sợ hiểm nguy,

Được không vọng niệm rồi thì,

Đó là đức tính có chi tốt bằng.

Này tăng ni ! Giữ tâm an định,

Tâm định rồi rõ sự diệt sanh,

Phải luôn tinh tấn lòng mình,

Kiên trì tu tập hành thiền không lơi.

Nếu tâm định xa rời náo loạn,

Như nước lên khéo chặn giữ bờ,

Tu hành cần trí có dư,

Định thiền tâm niệm chớ cho rịn rò.

Định là đức tình cơ hồ,

Giúp người rốt ráo sang bờ bên kia.


Này tăng ni ! Nếu người trí tuệ,

Hẳn đâu còn câu nệ chấp tham,

Tự mình xét việc đã làm,

Lòng thường tỉnh thức buộc ràng gỡ ra.

Dốc năng lực để mà giải thoát,

Nương theo điều giáo pháp Như Lai,

Nếu không trì tuệ đủ đầy,

Không sao gọi được như vầy xuất gia.

Chẳng thế gọi họ là thế tục,

Chẳng tên chi gọi được thứ này,

Chiếc thuyền trí tuệ xưa nay,

Giúp người vững chí ra ngoài tử sanh.

Là đèn rọi vô minh tan biến,

Là thuốc thần trị bệnh đảo điên,

Là gươm cắt đứt não phiền,

Trao dồi giác tuệ thường xuyên rất cần,

Nghe, hiểu, tu tăng cường lợi lạc,

Trí tuệ ngời mắt thịt cũng tinh,

Phải là trí tuệ quang minh,

Đó là đức tính tự mình sáng soi.

Này tăng ni ! Với người hí luận,

Chỉ khiến mình tâm loạn mà thôi,

Xuất gia chỉ vậy đâu rồi,

Không thành giải thoát ôi thôi buồn gì !

Tâm mê loạn chỉ vì hý luận,

Để vui vào tịch diệt chớ quên,

Loại trừ hý luận mới nên,

Đó là đức tính giữ mình hôm mai.

Này tăng ni ! Phải hoài tỉnh thức,

Tâm niệm về công đức gần xa,

Bỏ điều phóng túng hết ra,

Như là tránh giặc cướp nhà khác chi.

Lòng đại bi Phật vì khắp cả,

Mới lên lời hỉ xả này ra,

Những điều chánh pháp lợi ta,

Cùng là cứu cánh hầu qua Niết-bàn.

Phải nổ lực thực hành tinh tấn,

Dù sông hồ, rừng núi, gốc cây,

Dù trong tịnh thất hay ngoài,

Phải luôn nghĩ nhớ pháp này Phật ban.

Chớ chểnh mảng, lỡ làng qua mất,

Phương tiện nên tu tập cho rành,

Chuyên cần tinh tấn thực hành,

Để mình khỏi phí được sanh làm người.

Chớ để cả cuộc đời vô ích,

Khỏi sau này hối tiếc ăn năn,

Phật là thày thuốc tận tâm,

Biết rành bệnh lý, thuốc cần phải cho,

Mỗi bệnh trạng dặn dò mỗi loại,

Uống hay không đâu tại lỗi thày,

Phật như người chỉ đường ngay,

Chỉ phương giải thoát khỏi sai khỏi lầm.

Đường đã rõ chẳng năng cất bước,

Hỏi bao giờ mới được đến nơi,

Lỗi không bởi tại thày rồi,

Lỗi do biết lối nhưng lười chẳng đi.

17. Này tăng ni ! Bốn điều chân lý,

Các ông chưa hiểu ý chỗ nào,

Hãy nên hỏi lại rõ vào,

Thế Tôn chỉ dạy trước sau cho rành.

Thế Tôn nhắc ba lần như vậy,

Bốn chúng đều im lặng lắng nghe,

Chẳng ai thắc mắc gọi là,

Bấy giờ A-nậu - lâu-đà bước ra.

Bạch Thế Tôn: ‘Dù là trăng nóng,

Hay mặt trời lạnh cóng nay mai,

Bốn điều chân lý Như Lai,

Muôn đời vẫn vậy chẳng thay đổi gì.

Như ‘khổ đế’ cực kỳ thực tế,

Cõi trần đời dâu bể khổ đau,

Sanh già bệnh chết bao lâu,

Đã là quy luật khổ sầu nhân gian,

Thương yêu kết xa càng đau khổ,

Ghét nhau thì hội ngộ vui đâu,

Muốn ham chẳng toại hổ sầu,

Căn nguyên Tập đế: thương đau đời đời.

Do ái dục sinh sôi, chấp mắc,

‘Diệt đế’ là khổ cắt cho rơi,

Nguyên nhân đau khổ rã rồi,

Sáng đường ‘đạo đế’ an vui Niết-bàn.

15. Phật đã dạy rõ ràng rất mực,

Chẳng ai còn nghi hoặc điều chi,

Nhiều người chưa chứng được thì,

Nghe Phật nhập diệt sầu bi lệ tràn,

Người mới tu nghe ban lời ấy,

Càng ráng tu để thấy Niết-bàn,

Như đêm tăm tối kinh hoàng,

Bỗng lòe chớp sáng rõ ràng đường đi.

Người chứng quả đã lìa biển khổ:

Thầm nghĩ rằng Phật vội chi xa,

Lời Ngài A-nậu-lâu-đà:

Bốn điều chân lý Phật đà sáng soi.

Mọi người thấu hiểu cả rồi,

Đại bi Đức Phật ban lời, nói thêm:

Này tỳ kheo! Chớ nên bi thiết,

Đã sinh ra làm kiếp con người,

Hợp tan qui luật muôn đời,

Bao giờ hội hợp chẳng hồi ly tan?

Sự như vậy muôn ngàn không có,

Pháp lợi mình đâu đó đã thông,

Lợi người ta dạy đã xong,

Cho dù nán lại cũng không ích gì.

Cõi trời người ai kia đáng độ,

Thì bấy nay được độ cả rồi,

Ai chưa được độ đương thời,

Nhân duyên đã sẵn hẳn rồi cũng qua.

Nay đệ tử thay ta nối nghiệp,

Chỉ pháp thân bất diệt thường còn,

Thế gian muôn sự vô thường.

Hơp tan phải lẽ đừng thương đừng sầu.

Hãy tinh tấn sớm cầu giải thoát,

Trí tuệ làm gươm cắt mờ mê,

Thế gian đích thật hiểm nguy,

Rõ ràng muôn sự chẳng chi vững bền.

Nay nhập diệt bỏ đi bệnh dữ.

Bỏ cái thân ‘năm uẩn’ hợp này,

Tội tình nghiệp báo dãy đầy,

Người ta tạm gọi cái nầy là thân.

Giữa trầm luân sinh già bệnh chết,

Người trí mà đã dứt nó xong,

Ai không hoan hỉ tấc lòng,

Như trừ được giặc ai không vui mừng.

Này tăng ni ! Hãy dùng tha thiết,

Ráng tìm đường giải quyết sầu đau,

Thế gian to nhỏ trước sau,

Muôn loài vạn sự biết bao vô thường,

Các ông chớ cảm thương bi thiết,

Đã đến giờ nhập diệt Như Lai,

Đừng lời chi nữa dông dài,

Đến hồi thể nhập Niết-bàn Vô Dư,

Đó là những lời từ Phật dạy

Cũng là lời để lại sau cùng,

Phật-đà trí tuệ đại hùng,

Muôn đời soi sáng trùng trùng nhân gian.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15674)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16372)
Giới là nguồn cội của hết thảy Thiện pháp, là nền tảng của Tam vô lậu học và mọi quả vị Giải thoát... Nguyên tác: Lý Viên Tịnh; Thích Giác Quả dịch
(Xem: 23556)
Tại Gia Bồ Tát Giới Bổn - 3 ngôn ngữ Anh, Việt, Hoa - Nhiều Tác Giả
(Xem: 17442)
Tập Tổng quan kinh Đại Bát Niết-bàn này được chúng tôi biên soạn như một phần trong công trình dịch thuật và chú giải kinh Đại Bát Niết-bàn... Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 81276)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19580)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20211)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 47417)
Bấy giờ, năm trăm công tử Ly-xa, dẫn đầu bởi Bảo Tích (Ratnākāra), mỗi người mang theo một cây lọng quý, biểu hiệu quyền quý, đến vườn Xoài cúng dường Phật... Tuệ Sỹ
(Xem: 39153)
Trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
(Xem: 15811)
“Vũ trụ vạn hữu bản thể luận” của Định Hy là một kiến giải nhân sinh vũ trụ trên hai phương diện bản thểhiện tượng, tuy vậy không rời tính thực dụng của Phật pháp trong đời sống tu tập... Thích Đức Trí
(Xem: 23176)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 19238)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15145)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 16765)
Bản nầy thứ tự kinh văn số 1726 được khắc vào đời nhà Minh Vạn Lịch -Trung Quốc - và đang lưu trữ tại Báo Ân Tạng thuộc chùa Jojoji - Tăng Thượng tự - Tokyo, Nhật Bản... HT Thích Như Điển
(Xem: 13026)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13132)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48968)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 23283)
Giới luậtsinh mệnh, là sự sống của Phật tử, nhất là của hàng Tỳ kheo thừa Như lai sứ, hành Như lai sự... HT Thích Trí Thủ
(Xem: 19386)
Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất... HT Thích Thanh Kiểm
(Xem: 17155)
Luật Học Tinh Yếu - Muốn qua sông phải nhờ thuyền bè, muốn vượt bể khổ sinh tử phải nương nhờ Giới pháp... HT Thích Phước Sơn
(Xem: 32059)
Cúi đầu lễ chư Phật, Tôn Pháp, Tỳ-kheo Tăng, Nay diễn pháp Tỳ-ni, Để Chánh pháp trường tồn... HT Thích Trí Thủ dịch
(Xem: 27447)
Luật Tứ Phần - Việt dịch: HT Thích Đổng Minh; Hiệu chính và chú thích: Thích Nguyên Chứng, Thích Đức Thắng
(Xem: 14306)
Du Già Sư Địa Luận Thích - Trước tác: Bồ Tát Tối Thắng Tử; Hán dịch: Tam-Tạng Pháp Sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích Tâm Châu
(Xem: 14759)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18584)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16382)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 13896)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, thuộc Luận Tập bộ toàn. Thứ tự kinh văn số 1663 (562-563)... HT Thích Như Điển
(Xem: 17248)
Tác Giả: Tăng Triệu Ðại Sư - Lược Giải: Hám Sơn Ðại Sư; Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 19362)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28035)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 14371)
Toàn thể đại dụng, thu nhiếp xưa nay ngay trên đường; dứt trí tuyệt ngu, vật và ta ngang bằng nơi kiếp ngoại ... HT Thích Thiện Siêu
(Xem: 16929)
Luận về Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa - Phiên dịch, chú giải: Daniel B. Stevenson & Hiroshi Kanno - Phiên dịch, thi hóa: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
(Xem: 22153)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23296)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 27999)
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn...
(Xem: 64772)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33192)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40167)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 25096)
Luật nghi của Đức Thế Tôn chế định vì bảo hộ Tăng-già, thanh qui của Tùng Lâm đặt định để thành tựu pháp khí cho già lam, pháp thức hành trì cho cư gia phật tử để xây nền thiện pháp...
(Xem: 50212)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 38512)
Sách này thâu kết lời giảng của đức Đalai Lama về bài kinh ngắn mang tựa đề Bát Nhã Tâm Kinh, một trong những bộ kinh Phật giáo Ðại thừa quý giá nhất.
(Xem: 27315)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 28558)
Trọng tâm cứu khổ của Ngài Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, khổ tinh thần. Một khi con người đã giải thoát khổ tinh thần thì thân thể sẽ lành mạnh.
(Xem: 52212)
Đại Luận Về Giai Trình Của Đạo Giác Ngộ (Lamrim Chenmo) - Nguyên tác: Je Tsongkhapa Losangdrakpa - Việt dịch: Nhóm Dịch Thuật Lamrim Lotsawas
(Xem: 35847)
Địa Tạng Bồ Tát Bản Tích Linh Cảm Lục - Liêu Nguyên dịch, Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 32899)
Kinh Kim Cương lấy vô tướng làm tông, vô trụ làm thể, diệu hữu làm dụng. Từ khi Bồ-đề Đạt-ma đến từ Tây Trúc truyền trao ý chỉ kinh này khiến người đời ngộ lý đạo, thấy tính.
(Xem: 50804)
Sự giải thoát tinh thần, theo lời dạy của Ðức Phật, được thành tựu bằng việc đoạn trừ các lậu hoặc (ô nhiễm trong tâm). Thực vậy, bậc A-la-hán thường được nói đến như bậc lậu tận...
(Xem: 74882)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36120)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48978)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31011)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33923)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 28876)
Trải qua nửa thế kỷ thuyết pháp độ sinh, Ðức Ðạo sư đã hóa độ đủ mọi hạng người, không phân biệt màu da, chủng tộc, giai cấp, sang hèn... Thích Phước Sơn
(Xem: 58815)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46253)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43807)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43215)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45915)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48017)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 63726)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant