Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời Nói Đầu GS. Guy Newland, Ph.D.

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9134)
Lời Nói Đầu GS. Guy Newland, Ph.D.

SẮC TƯỚNGTHẬT TƯỚNG

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ


LỜI NÓI ĐẦU 
GS. Guy Newland, Ph.D.

Nếu có người tìm đến bạn và ngỏ ý muốn tìm hiểu về Phật Giáo, bạn sẽ nên bắt đầu như thế nào? Ta nên trình bày tỉ mỉ với họ thế nào là ý nghĩa của quy y Tam Bảo? Hay là thuyết giảng cho họ nghe về Tứ Diệu Đế, bài pháp đầu tiên của Đức Bổn Sư? Joshua Cutler (Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Giáo Tây Tạng tại Washington, New Jersey) đã nêu lên câu hỏi này với Đức Đạt Lai Lạt Ma và được Ngài đề nghị rằng, đối với giới Tây phương trong thời đại này, tốt hơn là ta nên bắt đầu với vấn đề Nhị Đế: Tục Đế (Sự thực ước lệ) và Chân Đế (Sự thực rốt ráo).

Ngài quan niệm rằng để dẫn dắt con người đến với Giáo Pháp tốt nhất là nên thông qua luận lý triết học và phân tích bản chất của thực tại. Trên căn bản của lời khuyên này, Joshua đã tổ chức một cuộc hội luận, mời gọi những bậc thức giả Tây Tạng và phương Tây đến tham dự và trình bày những kiến giải liên quan đến vấn đề Nhị Đế theo truyền thống Phật giáo mà họ nắm vững nhất. Joshua đã gởi đến tôi những cuốn băng này; Tôi đã chăm chú lắng nghe và đó là nguồn cảm hứng để tôi viết lên bản sơ thảo đầu tiên của cuốn sách này dùng tại Trung Tâm. Một số người nhận thấy giá trị của tập bản thảo và đề nghị tôi nên xuất bản nó.

THẾ NÀO LÀ THỰC TẠI ?

Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng. Thế nhưng, thúc đẩy bởi mối quan tâm đến phúc lợi của toàn thể chúng sanh, Ngài đã hành hoạt trong khuôn khổ của thế giới sắc tướng, ước lệ, vận dụng mọi khả năng của ngôn ngữ ước lệ để dẫn dắt chúng ta đi đúng hướng. Triết lý Phật giáo có ý hướng làm sáng tỏ nội dung triết họctri thức của một vấn đề cốt tủy của Phật giáo, và cũng là vấn đề muôn thuở của nhân loại: tính hai mặt của thế giới hiện tượng.

Trong cái thế giới đa dạng và phong phú này, ta đang sống với những hóa tướng và ước lệ, những tập tục và truyền thống; tuy nhiên điều này không có nghĩa là không có sự thôi thúc ta đi tìm sự bí mật về chân tướng của sự vật, cái thực tại tuyệt đối. Hẵn nhiên là chúng ta không thể tìm ra cái thực tại này ở bất cứ nơi nào khác mà phải ngay chính từ những hóa tướng này. Những triết gia Phật giáo gọi tính hai mặt này là Nhị Đế: Tục đếChân đế. Mỗi trường phái triết học Phật giáo đều đã cố gắng đưa ra những lý giải một cách chân xác nhất theo đường hướng của mình về thế nào là Nhị Đế và mối liên hệ giữa chúng như thế nào. Đi vào việc khám phá những trường phái này, chúng ta đang ghé mắt nhìn vào công việc của các nhà tư tưởng Phật giáo đang nắm bắt một vấn đề cơ bản: Thực tại là gì?

Dĩ nhiên đây không phải là một câu hỏi vớ vẩn mang tính trí thức mà là một vấn đề xuyên suốt tận cùng cốt tuỷ của đời sống tu tập chúng ta. Nếu một sự phân tích thấu đáo về thực tại đưa đến việc không có sự hiện hữu của thế giới vật chất, của bản ngã cá nhân, thế thì chúng ta là ai đây? Và nếu như sự phân tích thực tại đưa đến việc không có sự hiện hữu của một thiết định tuyệt đối về tiêu chuẩn đạo lý, thì cái gì sẽ hướng dẫn ta trong cuộc sống chung với đồng loại? Trong hành trình tu tập, đi xuyên qua giữa cái mớ bòng bong rối rắm này, một cái gì đó chợt bùng vỡ, thế là ta được giải thoátgiác ngộ.

Thực tại là gì? Đó là một câu hỏi đòi hỏi những phân tích trí tuệ. Tu tập chuyển hoá con người một cách toàn diện, kể cả mặt tinh thần. Đối với một vài tông phái Phật Giáo Tây Tạng, kể cả truyền thống Hoàng Mạo phái của Đức Đạt Lai Lạt Ma, tu tập bao gồm cả việc trau dồi sắc bén trí óc, biến nó thành một lưỡi gươm của trí tuệ viên mãn. Những tín đồ của truyền thống Hoàng Mạo phái khẳng định rằng trí huệ bát nhã không bao giờ là việc rời bỏ vô minh, mê vọng để rơi vào một tình trạng hư không, vô thức. Nếu giác ngộ được quan niệm một cách đơn giản như là chấm dứt dòng suy tưởng nhận thức, thì một nhát búa đánh vào đầu chắc chắn sẽ tạo ra trí tuệ bát nhã ngay lập tức! (1)

Thế thì thay vì chạy trốn khỏi sự rối rắm của tư tưởng nhị nguyên, chúng ta phải đối đầutìm cách nhận ra sự vật y nhưchân tướng của chúng, vận dụng luận lý để phân tích sự mê chấp của chính mình. Chỉ khi nào chúng ta hiểu rõ được thật tướng của sự vật chúng ta mới có thể bắt đầu thanh lọc trí tuệ bát nhã này để tiến đến tình trạng thể nhập trực tiếp vào cảnh giới vô vi của niết bàn. Thế nên, theo Đức Đạt Lai Lạt Ma và những người thuộc truyền thống Hoàng Mạo phái, vấn đề nghiên cứu một cách nghiêm túc các trường phái triết học Phật giáo không phải là chuyện sinh hoạt học thuật phụ thuộc bên cạnh hành trì tu tập mà đó chính là sự tu tập, cơ bản và sống động nhất. Trong Kinh Lăng Già Tâm Ấn, Phật dạy:

Giáo thuyết của ta có hai dạng:
Khuyến tấn và những học thuyết 
Đối với kẻ sơ cơ ta cho họ những lời khuyên
Đối với bậc du già sư, ta cho họ học thuyết. (2)

NHỮNG THUYẾT PHÁI

Cấu trúc của tứ đại thuyết phái Phật giáo được trình bày ở đây không đặt cơ sở trên sự phát triển theo tính niên đại của các học thuyết này tại Ấn Độ, cũng như nếu ta liên hệ chúng với truyền thống Phật giáo mang tính niên đại của Tây Tạng hay nhìn theo quan điểm của ngành niên đại học Tây phương đương đại (3). Thế nên khi bạn bắt đầu nghiên cứu triết học Phật giáo một cách có hệ thống, bắt đầu bằng tứ đại thuyết phái này, bạn không dùng phương thức tiếp cận của khoa sử học.

Bởi lý do này, một số học giả đã lên tiếng chỉ trích việc sử dụng các học thuyết này như là một chìa khóa nhận thức để hiểu biết về triết học Phật giáo. Họ lập luận rằng việc làm này đã xóa nhoà đi những dị biệt giữa các tổ sư Ấn Độ có thể đã sống xa cách nhau hàng trăm năm. Họ cũng cho rằng những “thuyết phái” này đã xuất hiện một cách khúc chiết và mạch lạc qua sự tưởng tượng phong phú của người Tây Tạng hơn là nội dung thực sự của chúng được trình bày dưới thời của các vị Tổ Ấn Độ, nay đã bị họ xếp loại một cách có ý đồ. Họ cũng đặc biệt quan tâm đến việc tránh đừng để cho việc nghiên cứu các nguồn mạch chính thống cuả chúng ta liên quan đến những kiến thức về triết học Phật giáo bị che mờ bởi các thuyết phái đã bị sắp xếp.

Dĩ nhiên là tôi rất thiện cảm với những phê phán này. Nghiên cứu về các thuyết phái sẽ không là mục tiêu tối hậu của những khám phá về triết học; đây cũng không phải là cách thế lựa chọn tốt nhất thay vì chúng ta có thể đọc thẳng các tác phẩm của các ngài Long Thọ, hay Thế Thân chẳng hạn. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng các nhà học giả Tây phương cũng đã đi hơi quá xa khi phủ nhận các tư liệu của Phật giáo Tây Tạng trình bày về các thuyết phái.

Mặc dù nó không dính chặt với lịch sử của những tư tưởng này, thế nhưng nó đã trình bày, cống hiến cho ta một khung sườn để suy nghĩ về triết học Phật giáo. Đánh giá thấp sự uyên bác của một số người Tây Tạng trong những phân tích của họ về triết học Phật giáo Ấn Độ, như Jamyang Shayba chẳng hạn, các nhà học giả đã phải bỏ công ra cả hàng năm trời để đi đến những kết luận mà lẽ ra họ có thể đạt đến chỉ trong khoảng vài tuần, vài ngày, thậm chí là vài tiếng đồng hồ.

Như vậy, trừ phi mối quan tâm của chúng ta nghiêng về mặt học thuật, ta không thể nào đặt nặng đến khía cạnh lịch sử của những tư tưởng cho đến khi nào ta có thể hiểu được những tư tưởng này là gì. Thế nên tư liệu về các thuyết phái là nơi tốt nhất trang bị cho ta hiểu biết, nhận thức. Và nếu chúng ta lưu ý rằng sự sắp xếp đặc biệt này được hình thành tại Tây Tạng như là một cách thế để cấu trúc một cái nhìn toàn diện mạch lạc, có thể dung hợp được tính cách đa dạng của triết học Phật giáo Ấn Độ, chúng ta sẽ sử dụng nó một cách đúng đắn đầy lợi ích. Tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn của mình đối với các nhà học giả Tây Tạng, những người đã làm công việc này, từ vị trí cái nhìn của họ, không phải là không cống hiến cho chúng ta nhiều phúc lợi.

Thế cho nên, một điều cũng rất rõ ràng rằng, cuốn sách này không có mục đích trình bày một cái nhìn tổng quát về triết học Phật giáo, càng không phải là một tổng quan về triết học Phật giáo Tây Tạng. Cuốn sách này được viết cho những độc giả đã có một số hiểu biết về Phật giáođặc biệt là đối với những ai đang thật tình quan tâm đến việc tìm hiểu những khía cạnh triết học của Phật giáo Ấn Độ hay Tây Tạng nhưng có thể đã bị bối rối trước những dịch phẩm của những tư liệu mang nặng tính học thuật. Những điều mà tôi muốn trình bày trong tập sách nhỏ này -những tư tưởng cốt tủy của tứ đại thuyết phái được lý giải dưới cái nhìn của Hoàng Mạo phái- hy vọng có thể là một chiếc cầu hay ít ra là một viên gạch lót đường để đưa đến một nhận thức rộng mở và một nghiên cứu sâu sắc hơn.

ĐÔI HÀNG CẢM TẠ

Trong tập sách này, xin được chia xẻ những điều mà tôi đã được học từ những vị tôn sư của Phật giáo Tây Tạng còn sống hay đã qua đời, cũng như từ các đồng nghiệp và các bậc thầy của tôi. Một số vị mà tôi nghĩ là có những đóng góp rất quan trọng cụ thể như Harvey Aronson, Anne Klein, Elizabeth Napper, Joe Wilson, Don Lopez, Dan Cozort, John Buescher, Kensur Yesche Tupden, và Geshe Palden Dragpa. Đồng thời cũng xin được gởi lời cảm tạ đến Susan Kyser (của Snow Lion) và Nathan Lamphier về những góp ý đối với bản thảo. Cuốn sách này sẽ không được hình thành nếu không có những nỗ lực của Jeffrey Hopkins, Joshua Cutler (người thực hiện dự án), Sidney Piburn (người thúc đẩy tôi hoàn thành và xuất bản tác phẩm này), cũng như của Đức Đạt Lai Lạt Ma.

GHI CHÚ 

Trong tập sách này, một số thuật ngữ Tây Tạng và Sanskrit được chuyển qua dạng Anh ngữ được trình bày trong dấu ngoặc đơn. Những chuyển ngữ này đặt căn bản trên hệ thống đã được Turrel Wylie giới thiệu trong bài viết , “A standard System of Tibetan Transcription” (Havard Journal of Asiatic Studies, 22, 1959, 261-276). Ngoài ra, những danh từ riêng Tây Tạng đượcviết dưới dạng ngữ âm học nguyên thuỷ, dĩ nhiên không hẵn là giúp người đọc phát âm một cách đúng đắn mà chỉ có mục đích duy nhất là tạo một âm hưởng tương đối gần đúng với tên gọi của Tây Tạng.

GUY NEWLAND

CHÚ THÍCH:

(1) Thí dụ này được gợi ý từ lời chú giải của một vị Thiền sư đương đại, Shengyen: “Không phải khi một người không còn những ý nghĩ phân tán tức là vấn nạn của đương sự đã được giải quyết. Nếu bạn cãm thấy thích thú được ở trong tình trạng như thế, thì cứ việc nhờ ai đó đánh mạnh vào đầu. Có rất nhiều người không phân biệt được giữa trí tuệ chân thựctrạng thái tịch tĩnh. Nếu bạn không hiểu được sự khác biệt này, cho dù là bạn dày công tu tập, cũng chỉ uổng phí thôi.” -Trích từ Faith in Mind in Deborah Sommer’s Chinese Religion. New York: Oxford, 1995. 337.

(2) Lankavatarasutra (Descent into Lanka Sutra) trích dẫn trong Practice and Theory of Tibetan Buddhism, bản dịch của Sopa & Hopkins. New York: Grove Press, 1976. 53.

(3) Muốn có một thí dụ về những kiến giải theo truyền thống Tây Tạng, có thể đọc thêm: Meditation on Emptiness. Jeffrey Hopkins. London: Wisdom, 1983. 353-364. Muốn có một thí dụ về những kiến giải theo truyền thống kinh viện Tây phương, có thể đọc thêm: Mahayana Buddhism. Paul Williams. New York: Routledge, 1989.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15524)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0431 - Tùy Thiên Trúc Tam Tạng Xà Na Quật Đa dịch Hán; Thích Hạnh Tuệ dịch Việt
(Xem: 14967)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0395 - Hán dịch: Pháp Hộ; Như Hòa dịch Việt
(Xem: 14809)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0394 - Hán dịch: Thất Dịch; Lệ Nhã dịch Việt
(Xem: 13245)
Hán dịch: Đời Tống, Tam tạng Đại sư Thi Hộ người nước Thiên Trúc phụng chiếu dịch. Việt dịch: Thích Nữ Đức Thuận
(Xem: 14415)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0390 - Huyền Trang dịch Hán; Thích Nữ Như Tuyết dịch Việt
(Xem: 20170)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Thích Viên Giác dịch Việt
(Xem: 18401)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389 - Cưu Ma La Thập dịch Hán; Trí Nguyệt dịch Việt
(Xem: 30722)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0385 - Hán dịch: Diêu Tần Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang
(Xem: 12391)
Đại Chánh Tân Tu số 0367, Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: Như Hòa
(Xem: 15503)
Đại Chánh Tân Tu số 0366, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 13733)
Đại chánh tân tu số 0360, Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 13912)
Đại chánh tân tu số 0353, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 13513)
Đại chánh tân tu số 0349, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14422)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0430 - Hán dịch: Tăng Già Bà La, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 13694)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Kinh số 2031 - Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 16704)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0309 - Hán dịch: Trúc Phật Niệm, Việt dịch: Thích Tâm Khanh
(Xem: 15357)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0261 - Hán dịch: Bát Nhã, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Tâm Châu
(Xem: 31191)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bát Nhã, Kinh số 0220 - Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang, Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm, Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
(Xem: 18771)
Đại chánh tân tu số 0202, Hán dịch: Tuệ Giác Đẳng, Việt dịch: HT Thích Trung Quán
(Xem: 14964)
Đại chánh tân tu số 0199, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14559)
Đại chánh tân tu số 0197, Hán dịch: Khương Mạnh Tường, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14558)
Đại chánh tân tu số 0191, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 13772)
Đại chánh tân tu số 0189, Hán dịch: Cầu Na Bạt Đà La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 19678)
Đại chánh tân tu số 0187, Hán dịch: Địa Bà Ha La, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14417)
Đại chánh tân tu số 0158, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 14497)
Đại chánh tân tu số 0151, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14696)
Đại chánh tân tu số 0116, Hán dịch: Đàm Vô Lang, Việt dịch: Thích Nữ Như Tuyết
(Xem: 14728)
Đại chánh tân tu số 0104, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì; Thích Nguyên Chơn; Thích Nhất Hạnh
(Xem: 17885)
Đại chánh tân tu số 0102, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Lý Hồng Nhựt
(Xem: 13521)
Đại chánh tân tu số 0098, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13661)
Đại chánh tân tu số 0097, Hán dịch: Chơn Ðế, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14919)
Đại chánh tân tu số 0096, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14132)
Đại chánh tân tu số 0095, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16396)
Đại chánh tân tu số 0094, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15294)
Đại chánh tân tu số 0093, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13465)
Đại chánh tân tu số 0092, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13120)
Đại chánh tân tu số 0091, Hán dịch: An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13252)
Đại chánh tân tu số 0090, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12971)
Đại chánh tân tu số 0089, Hán dịch: Trở Cừ Kinh Thanh, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14060)
Đại chánh tân tu số 0088, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14691)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 14192)
Đại chánh tân tu số 0087, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14593)
Đại chánh tân tu số 0086, Hán dịch:Trúc Đàm Vô Sấm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12980)
Đại chánh tân tu số 0085, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13786)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Thiện Trì
(Xem: 13237)
Đại chánh tân tu số 0084, Hán dịch: Thi Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13721)
Đại chánh tân tu số 0083, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14655)
Đại chánh tân tu số 0082, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14726)
Đại chánh tân tu số 0081, Hán dịch: Thiên Tức Tai, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13249)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Tuệ Thông
(Xem: 12805)
Đại chánh tân tu số 0080, Hán dịch: Pháp Trí, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13718)
Đại chánh tân tu số 0079, Hán dịch: Cầu Na Bạt Ðà La, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13662)
Đại chánh tân tu số 0078, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13298)
Đại chánh tân tu số 0077, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13857)
Đại chánh tân tu số 0076, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13667)
Đại chánh tân tu số 0075, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12557)
Đại chánh tân tu số 0074, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14795)
Đại chánh tân tu số 0073, Hán dịch: Cầu Na Tỳ Ðịa, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12849)
Đại chánh tân tu số 0072, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12414)
Đại chánh tân tu số 0071, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant