Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương IX: Nhị ĐếBồ Tát Đạo

01 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9746)
Chương IX: Nhị Đế Và Bồ Tát Đạo

SẮC TƯỚNGTHẬT TƯỚNG

Vấn Đề Nhị Đế Trong Tứ Đại Thuyết Phái của Phật Giáo
Prof. Guy Newland, Ph.D.
Tâm Hà Lê Công Đa chuyển ngữ

CHƯƠNG IX
NHỊ ĐẾBỒ TÁT ĐẠO

Thấu hiểu một thuyết phái Phật giáo có nghĩa là phải thấu hiểu những điểm cơ bản, đạo lộ, và đạo quả tu chứng của thuyết phái đó. Trong nhữngï lý giải của Trung Quán Tông về Bồ tát đạo, điều này có nghĩa là ta cần phải thấu hiểu :

(1) Phúc đế và Chân đế;

(2) Thực hành phương tiện thiện xảotrí tuệ ; và

(3) Sắc thânchân thân của một vị Phật.

Mặc dù trọng tâm nghiên cứu của cuốn sách này là những xác định chung quanh Nhị Đế, chúng ta cũng đã cố gắng ghi nhận những khẳng định của tứ đại thuyết phái Phật giáo về Nhị Đế trên cơ sở của đạo lộ và đạo quả của từng trường phái một.

Nhận thức rõ những phúc đế được thiết định như thế nào -ví dụ như con người hiện hữu một cách công ước, những nghiệp hành, nghiệp quả, v.v...- có thể làm phát khởi lòng từ bi và tích lũy công đức qua việc thực hành lục độ ba la mật như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, v.v... mà tất cả đều được thúc đẩy bởi động cơ chính là lòng từ vô hạn.

Nếu một người mất khả năng thiết định phúc đế, rơi vào chủ nghĩa hư vô, đoạn kiến, họ rất dễ dàng bị cuốn hút vào những hành động vô luânhậu quả là dẫn đến những tái sanh vào các cảnh giới xấu ác. Mặc dù ta không hoàn toàn hiểu thấu được cái ý nghĩa cho rằng nghiệp hànhnghiệp quả đều là những phúc đế, tức là “những chân lý nhận biết bởi vô minh”, phải đợi đến sau khi ta thực chứng được tánh Không của những hiện hữu tự thân để biết được chúng xuất hiện một cách giả dối, niềm tin vào các hiện tượng giới công ước hiện hữu và hành hoạt các chức năng của chúng là một điều cần thiết ngay từ khởi điểm.

Trong khi một khả năng thiết định phúc đế như con người, nghiệp hànhnghiệp quả, v.v... là điều cần thiết để tích lũy công đức hầu tái sanh vào những cảnh giới tốt đẹp hơn, sự giải phóng con người ra khỏi vòng luân hồi sinh tử là bất khả thi nếu khôngtuệ giác thực chứng được Chân đế, tức là tánh Không, cái bản thể rốt ráo sau cùng của mọi hiện tượng giới.

Như vậy sự nhận thức vô phân biệt về Nhị Đế cho phép vị Bồ Tát gieo trồng công đức lẫn hạt giống trí tuệ. Hai tập hợp của công đứctrí tuệ mang đến đạo quả thể hiện qua “sắc thân” (sắc tướng xuất hiện trong thế giới này và những thế giới khác để giáo hóa chúng sanh) và “chân thân” (tuệ giác của một vị Phật và tánh Không của tuệ giác đó) của một vị Phật.

Có người có thể cho rằng quả là điều nghịch lý nếu không nói là phi lý khi một vị Bồ tát triển khai lòng đại từ bi đối với những chúng sanh đã không hề tự khẳng định sự hiện hữu, những chúng sanh chỉ thuần là những ý niệm giả lậptuy nhiên trong thực tế tu tập, từ bitrí tuệ đã phát huy tác dụng khi được kết hợp một cách viên dung. Thực chứng tánh Không hổ trợ, củng cố, và hoạt động song hành cùng với từ bivị tha trong nhiều cách thế khác nhau:

(1) Khi nhận thấy rằng không có một cái hiện hữu tự thân khác nhau giữa một cái ta và kẻ khác, nhà hành giả Du già xoá nhòa dần lòng thương yêu vị kỷ “chỉ biết tìm kiếm cái số một”, tức là cho rằng có một cái ngã thực sự hiện hữu “ở đây” cần phải được bảo vệ và nuông chìu không cần đếm xỉa đến kẻ khác hoặc ngay cả dưới cái giá phải trả của kẻ khác.

(2) Khi nhận thấy rằng mình chia xẻ cùng tất cả mọi loại chúng sanh một bản thể cơ bản về tánh Không, nhà hành giả Du già củng cố cảm giác sâu xa về mối thân cận và liên hệ với tha nhân, tức là yếu tố chính của lòng thương yêutừ bi.

(3) Trong mối khát khao vươn đến Phật quảhạnh phúc của muôn loài, nhận chân được rằng điều này đòi hỏi một nỗ lực cố gắnghy sinh vô cùng lớn lao, nhà hành giả Du già cần được võ trang bằng một niềm tin vững chắc rằng họ có thể trở thành một vị Phật. Niềm tin này lớn mạnh qua sự nhận thức rằng những khả năng hữu hạn của ta để giúp đỡ tha nhân trong hiện tại không phải là bản tánh tự thân -bản tánh đó là tánh Không tinh khiết, vốn có khả năng rộng mở không bờ bến về sự tự chuyển hóa.

(4) Cuối cùng, khi một vị Bồ tát thực hành những hạnh nguyện do lòng từ bi thúc đẩy, cụ thể như bố thí ba la mật, tất cả những hành động này đều được tịnh hoá để trở thành “viên mãn” thông qua tri kiến của vị bồ tát rằng người bố thí, vật bố thí và hành động bố thí tất cả đều trống rỗng hiện hữu tự thân.

Trái lại, tinh thần vị tha nâng cao khả năng phát triển trí tuệ bằng cách hổ trợ một động cơ thúc đẩy rất tinh khiết và mạnh mẽ cho việc thiền quán tánh Không. Theo trường phái Quy Mậu Biện Chứng, những hành giả của Tiểu thừa cũng thực chứng một tánh Không sâu sắc như một bậc Bồ tát thực chứng, đó là tánh Không của hiện hữu tự thân. Tuy nhiên, những hành giả Tiểu thừa, do được thúc đẩy bởi ý nguyện chính là đạt đến sự giải thoát cho riêng cá nhân mình, đã chỉ tiếp cận tánh Không thông qua một vài lý do hạn định, nhằm vươn đến sự giải phóng an bình một cách cá nhân như là những A la hán.

Bậc Bồ Tát, trái lại trong khi tìm kiếm mọi cách để gia tăng tối đa khả năng cứu độ chúng sinh, đãphong phú hoá kinh nghiệm của mình trong trăm nghìn cách tiếp cận việc thực chứng tánh Không. Thúc đẩy bởi lòng vị tha không bờ bến, họ tự trui rèn mình trong việc vun trồng công đứctrau dồi trí tuệ qua không biết bao nhiêu a tăng tỳ kiếp. Với vô lượng công đức được tích luỹ này, không những cho phép bậc Bồ Tát vượt qua những trở ngại trên hành trình giải thoát, mà còn cả những trở ngại nhằm vươn đến tình trạng nhất thiết trí, toàn tri toàn giác.

11.14.02


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13718)
Chủ ý đó là muốn Tỷ kheo phải là bậc Chúng trung tôn, thân miệng ý, cả 3 nghiệp ấy đừng có những tội lỗicử động bất xứng... Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 25407)
Bộ Luật Tứ Phần khởi nguyên do bộ phái Đàm-vô-đức (Dharmagupta, Pháp Tạng bộ) truyền trì... Hòa thượng Thích Trí Thủ dịch (1983)
(Xem: 13786)
Là một bộ luật quan trọng trong sáu bộ luật của ngài Nam Sơn, bắt nguồn từ bộ luật của ngài Đàm-vô-đức. Vào cuối đời Đường ở núi Thái Nhứt, sa môn Đạo Tuyên chú thích. Việt dịch: Thích Thọ Phước
(Xem: 15098)
Đại Chánh Tân Tu - Kinh số 685; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Hạnh Cơ
(Xem: 17704)
Hạnh Cơ tập hợp và chuyển dịch từ hai bản Luận: Duy Thức Tam Thập TụngBát Thức Qui Củ Tụng
(Xem: 17115)
Kinh Hoa Nghiêm phát xuất từ Ấn Ðộ, nhưng được phát triển mạnh ở Trung Quốc, Nhật Bản... HT Thích Trí Quảng
(Xem: 14215)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0232 - Hán dịch: Mạn Ðà La Tiên; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 13202)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0226 - Hán dịch: Đàm Ma Ty, Trúc Phật Niệm; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 14461)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0592 - Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 19766)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0590; Hán dịch: Trí NghiêmBảo Vân ; Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo
(Xem: 16754)
Trong Tam tạng Kinh điển tất cả giáo PhápTiểu Thừa hay Đại Thừa, dù tại gia hay xuất gia, Giới Luật luôn là phần trọng yếu nhất... Ngài Hoằng Tán lược sớ - Thích Nữ Trí Hải (tự Như Hải) dịch
(Xem: 18633)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19066)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18871)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 21181)
Kinh Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm - Hán dịch: Bát Lạt Mật Đế; Việt dịch và chú thích: Hạnh Cơ
(Xem: 14806)
Đại Thừa Kim Cang Kinh Luận - Dịch giả: TT Thích Viên Giác; Xuất bản năm 1963
(Xem: 39197)
Đêm nay ngày lành Nguyên đán, Giờ này phút thiêng giao thừa, Chúng con : Tuân lệ cổ tục ngày xưa, Mở cửa nghinh xuân tiếp phước.
(Xem: 14412)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, Số 2072, nguyên tác: Minh Châu Hoằng; Nguyên Lộc Thọ Phước
(Xem: 19387)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0579; Hán dịch: Thất Dịch; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Châu
(Xem: 14725)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0549; Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Nữ Diệu Thiện
(Xem: 16157)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0475 - Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 14711)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0502 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 15238)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0508 - Hán dịch: Sa môn Pháp Cự; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14917)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0466; Hán dịch: Tỳ Ni Đa Lưu Chi; Việt dịch: Thích Nữ Tuệ Thành
(Xem: 15575)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0464; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 39159)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0456; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 14132)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0455; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 24522)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0454; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 14397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0453; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 19464)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 18030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0452; Hán dịch: Thư Cừ Kinh Thanh; Việt dịch: Thích nữ Như Phúc
(Xem: 21470)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 19699)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0451; Hán dịch: Nghĩa Tịnh; Việt dịch: Thích Nguyên Chơn
(Xem: 17524)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0450; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14849)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0449; Hán dịch: Ðạt Ma Cấp Ða; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 13897)
Kinh Ưu Bà Tắc, kinh số 128, thuộc bộ Trung A Hàm, tạng Đại Chánh - Hán dịch: Cù Đàm Tăng Già Đề Bà; Việt dịch: cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 13768)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0516; Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 14119)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0762 - Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 21924)
KINH A DI ĐÀ (Văn Vần)... Như Lai Phật Tổ lúc này, Tại vườn Cô Độc rừng cây Kỳ Đà; Cách thành Xá Vệ không xa, Là nơi Phật ở nói ra kinh này... HT Thích Khánh Anh
(Xem: 16759)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0680; Hán dịch: Pháp sư Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tịnh Quang
(Xem: 15234)
Kinh Tám Đề Tài Giác Ngộ Của Các Bậc Đại Nhân (Kinh Bát Đại Nhân Giác) - Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Cư sĩ Hạnh Cơ
(Xem: 14543)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0506, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14061)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0777, Hán dịch: Bạch Pháp Tổ; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14366)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0367, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 15686)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0840, Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích Hạnh Tuệ - Trú xứ Chùa Phật Đà, California, Hoa Kỳ
(Xem: 14325)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0436; Hán dịch: Huyền Trang; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 15025)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0435; Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích nữ Tâm Thường
(Xem: 18571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0427; Hán dịch: Chi Khiên; Việt dịch: Huyền Thanh
(Xem: 24683)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, số 0447a, Dịch từ Phạn ra Hán: Đời nhà Lương khuyết danh, Dịch từ Hán ra Việt: HT Thích Huyền Tôn
(Xem: 23129)
Chứng Đạo Ca - Nguyên tác: Huyền Giác; Bản dịch thơ Chứng Đạo Ca của H.T Thích Thuyền Ấn, sáng tác những năm tháng từ 1980 - 1990, lúc Ngài đang bị quản thúc.
(Xem: 28571)
Duy Thức Tam Thập Tụng (唯 識 三 十 頌) Tài Liệu Học Tập Lớp Cao Học Triết của Đại Học Văn Khoa Viện Đại Học Vạn Hạnh, Niên Khóa: 1972-1973... HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 15077)
Kinh Di Giáo - Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0389, Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14128)
Kinh Tám Điều Giác Ngộ - Dịch thơ HT Thích Thuyền Ấn
(Xem: 14650)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0413; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Bất Không; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 18318)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0409; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Thích Vạn Thiện
(Xem: 26535)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0407; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ðàm Ma Mật Ða; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15206)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0405; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Phật Ðà Gia Xá; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 14859)
Đại Chánh Tân Tu, kinh số 0402; Kinh Bảo Tinh Đà La Ni - Hán dịch: Ba La Pha Mật Ða La; Việt dịch: Tuệ Khai sư sĩ
(Xem: 15212)
Luận Giải Trung Luận: Tánh Khởi và Duyên Khởi - Hồng Dương Nguyễn Văn Hai do Ban tu thư Phật học Viện Cao Đẳng Hải Đức ấn hành
(Xem: 15156)
Tiêu thích Kim cương kinh khoa nghi (銷釋金剛經科儀) , còn gọi là Kim cương khoa nghi (金剛科儀) hay Kim cương bảo sám (金剛寶懺), nằm trong Tạng ngoại Phật giáo văn hiến (藏外佛教文獻), quyển 6, kinh số 53... Quảng Minh dịch
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant