Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Phổ Môn Phạn Bản Tân Dịch (bản Việt Dịch Đầu Tiên Từ Sanskrit)

12 Tháng Mười Một 201808:19(Xem: 10739)
Phẩm Phổ Môn Phạn Bản Tân Dịch (bản Việt Dịch Đầu Tiên Từ Sanskrit)
PHẬT ĐIỂN PHẠN VĂN
Buddhist Sanskrit Text No. 17
PHÁP HOA PHẠN BẢN TÂN DỊCH

Saddharmapuṇḍarīkasūtram
BẢN VIỆT DỊCH PHÁP HOA PHẠN VĂN ĐẦU TIÊN 

***
CHƯƠNG 24
MÔ TẢ VỀ BỒ TÁT AVALOKITEŚVARA:
VỊ TOÀN DIỆN VÀ CÁC BIẾN THỂ
[TỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT  PHỔ MÔN 
PHẨM]
Samantamukhaparivartaḥ 

*
Phước Nguyên
Dịch từ bản Sanskrit và chú thích
[Bản dịch đăng tải 10/2018,
nhân ngày kỷ niệm Đại sĩ Quán Âm 19/9/ Mậu tuất - PL. 2562]

Phẩm Phổ Môn Phạn Bản Tân dịch (Bản Việt dịch đầu tiên từ Sanskrit)

#Lược ghi Phổ môn Phạn văn:
Có mấy điểm cho là cần thiết ghi nhận sơ lược ở đây:
**Nói Phổ Môn ở đây là nói phẩm 24 của bản Phạn, thường được biết đến là phẩm 25 trong bản Pháp sư La-thập.
(1) Nói là Avalokiteśvara tức là nói về vị Đại sĩnăng lực biến thểtoàn diện, đó là nói sự, còn nói lý tánh, tức nói về Bi & Trí của Quán Âm tính, Bi của Đại sĩ được Phổ Môn miêu tả rất rõ nét, còn Trí thì Bát-nhã Tâm kinh đã thuật kỹ. Trí tính ấy là nước pháp và đất pháp nuôi lớn tâm Bồ-đề, để khởi hành trên Bồ-tát thừa. 

(2) Về biến thể Quán Âm Đại sĩ, theo bản Hán là 32 thân biến thể, bản Phạn chỉ có 16 thân biến thể.
(3) Kệ tụng Phổ môn, bản Phạn đặc biệt có 5 kệ tụng 29 -33, mà các bản Hán đều không có. Trong đây lưu ý tụng 12 của Phạn Bản, các bản Việt - Hán thường hiểu đại khái: "Trù ếm, các thuốc độc, muốn hại đến thân kia. Do sức niệm Quán-Âm, Trở hại nơi bổn-nhân", câu này nếu hiểu như vậy sẽ có những trắc trở, nên hiểu theo tụng 12 trong bản Phạn, thì mới thấy được hoạt dụng đại bi của Quán Âm.
(4) Nói về năng lực gia trì của Quán Âm Đại sĩ, đây không thể nói bâng quơ năm ba hàng, cho là linh ưng hay bất linh ứng, mà phải nói năng lực đó là "nan tư nghị", liên hệ đến phước - trí và tâm nguyện lễ bái hành trì, từ nơi bản lai pháp tính mà hoạt dụng phương tiện.

Ở đây, ghi thêm điểm chót, đọc Phổ Môn xong, kế tiếp đọc lại Tâm kinh, sẽ thấy bài kinh mở đầu bằng hình ảnh Đại sĩ Avalokiteśvara là đại diện cho Bi tính; khởi đầu bằng Bi tính - thể, Đại sĩ Avalokiteśvara quán chiếu Bát-nhã thâm sâu, quá trình tu tập ấy diễn ra một cách liên tụcthường trực, dẫn đạo thể nhập Không tính, đây là sự kết hợp đặc biệt và hài hòa về Bi - Trí, hình ảnh độc đáo mô tả quá trình tu tập cần thiết của bất cứ hành giả nào muốn chứng nhập Không tính hay Thực tính Bát-nhã.
Đọc Phổ Môn có hai cách:
-Hoặc đọc như một truyện cổ tích, đọc như nước chảy mây trôi.
- Hoặc đọc giữa hai hàng chữ, thấy lửa không phải là lửa vật lý mà là lửa phiền não, nước không không phải H20 mà là dòng ái lưu...
Đảnh lễ Pháp - Hóa thân Đại Sĩ Quan Âm.

Kính ghi,
Phước Nguyên (18/9/2562)

_________________________

CHƯƠNG 24

MÔ TẢ VỀ BỒ TÁT AVALOKITEŚVARA:

VỊ TOÀN DIỆN VÀ CÁC BIẾN THỂ 


1.

Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3]  hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:

"Bạch đức Thế Tôn, vì sao Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara[4] được gọi là Avalokiteśvara?”

2.
Sau câu hỏi ấy, đức Thế Tôn dạy Bồ Tát Đại sĩ Akshayamati:

“Này người con trai của gia đình hiện thiện! Trong tất cả hàng trăm ngàn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỉ chúng sinh[5], mà có bất cứ chúng sinh nào hiện thời đang phải chịu đựng[6] những khổ nạn bất an, nếu họ nghe được danh hiệu của Bồ Tát Đại Sĩ Avalokiteśvara, thì tất cả họ được thoát ra khỏi[7] khối khổ nạn đó[8].

3.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Có bất cứ người nào trì niệm[9] danh hiệu Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara, nếu họ bị rơi vào[10] đống lửa lớn[11], thì bằng sức mạnh ánh sáng[12] của Bồ Tát Đại sĩ Avalokiteśvara mà họ sẽ thoát ra khỏi đống lửa lớn đó.

4.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Trong trường hợp, có chúng sinh nào bị cuốn trôi theo các dòng sông[13], nên khấn nguyện[14] Bồ Tát Đại sĩ Avalokiteśvara, thì tất cả các dòng sông ấy nhất định sẽ xuất hiện chỗ nước cạn[15].

5.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Trong trường hợp, có hàng trăm ngàn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỉ chúng sinh đi tàu thuyền ra đại dương để tìm kiếm tài vật[16]: vàng, ma-ni, ngọc trai, kim cương, lưu y, xà cừ, đá quý, san hô, ngọc lục bảo, hổ phách, các viên ngọc trai, cùng các tài vật khác, và thuyền của họ bị chuyển động dữ dội[17], một cơn gió hắc ám[18] đã đẩy họ vào hòn đảo của rākṣasī[19] (nữ La-sát), mà nếu trên con thuyền đó dù chỉ có một chúng sinh khấn nguyện Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara, thì tất cả họ cũng đều sẽ thoát ra khỏi đảo của rākṣasī đó.

Vì những lý do đó, Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara được mệnh danh[20] là Avalokiteśvara.

6.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Thậm chí có bất cứ ai hiện phải bị đưa ra tử hình[21], nếu người đó khấn nguyện Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara, thì thanh gươm[22] của người hành hình[23] sẽ bị gãy thành từng đoạn[24].

7.
Lại nữa, này người con trai của gia đình hiền thiện! Giả sử, toàn bộ cả một tỷ thế giới này[25] có mặt đầy dẫy[26] các loài yakṣa (dạ-xoa)[27] và rākṣa (La-sát), nhờ sức mạnh danh hiệu của Bồ-tát Đại sĩ Quán Thế Âm được trì niệm mà chúng không còn dám nhìn người[28] bằng tâm tư xấu ác nữa[29].

8.
Thêm nữa, này người con trai của gia đình hiền thiện! Nếu có bất cứ chúng sinh nào bị giam hãm bằng những chiếc gông gỗ hay sắt [ở đầu], bị xiềng xích ở tay hoặc bị cùm chân, dù người đó có tội hay vô tội[30], nếu ngay khi đó mà danh hiệu của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara được trì niệm, thì những gông, cùm, xiềng xích đó đều sẽ nhanh chóng[31] trong tình trạng được tháo mở hoàn toàn[32].

Như thế, này người con trai của gia đình hiền thiện, đó là thần lực[33] của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara vậy.

9. Này người con trai của gia đình hiền thiện, giả sử toàn bộ một tỷ thế giới này, có mặt đầy dẫy những kẻ bất lương, oán địchcường đạo tay cầm gươm đao cướp bóc, lại có người trưởng đoàn thương buôn cùng đoàn tùy tùng đang đi trên đường bằng những cổ xe to lớn sang trọng có chất nhiều châu báu; Nếu sau khi gặp phải những kẻ bất lương, oán địchcường đạo tay cầm gươm đao đó, thì họ trở nên lo lắngsợ hãi, khởi lên ý nghĩ bản thân hiện tại không có nơi trú ẩn[34]. Giả sử, lúc ấy người trưởng đoàn thương buôn nói với đoàn tùy tùng đang căng thẳng kia:

“Đừng hoảng sợ, này người con trai của gia đình hiền thiện, đừng khiếp đãm! Tất cả các ông, hãy bằng lời kêu cứu mà khấn nguyện Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara - vị ban cho sự an ninh[35], thì các ông sẽ thoát khỏi mối nguy hiểm từ sự đe dọa của giặc cướp và kẻ thù.”

Rồi thì, lúc bấy giờ, đoàn tùy tùng với một lời kêu cứu mà khấn nguyện nguyện ngài Avolokiteśvara, với nội dung: “Xin Quy kỉnh! Xin đảnh lễ Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara là đấng ban cho sự an ninh”[36]. Ngay khi đó, chỉ nhờ hành động trì niệm danh hiệu ấy mà đoàn tùy tùng sẽ giải thoát được tất cả mọi nguy hiểm.

Như vậy, này người con trai của gia đình hiền thiện, đó là thần lực của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara vậy.

10.
Này người con trai của gia đình hiền thiện, trong trường hợp, có chúng sinh nào hành động dưới sự thúc đẩy của tham đắm[37], sau khi tôn kính Bồ-tát đại sĩ Avalokiteśvara, nhất định họ sẽ đi ra khỏi tham đắm.

Hay chúng sinh nào hành động dưới sự thúc đẩy của sân hận[38], sau khi tôn kính Bồ-tát đại sĩ Avalokiteśvara, nhất định họ sẽ đi ra khỏi sân hận.

Còn chúng sinh nào hành động dưới sự thúc đẩy của si mê[39], sau khi tôn kính Bồ-tát đại sĩ Avalokiteśvara, nhất định họ sẽ đi ra khỏi si mê.

Như vậy, này người con trai của gia đình hiền thiện, đó là do sức mạnh tâm linh vĩ đại[40] của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara.

11.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Nếu người đàn bà nào thực hành sự tôn kính với Bồ-tát Đại sĩ Avolokiteśvara, mà ước muốn có con trai, thì nàng sẽ có được con trai tử tế, khôn ngoan, tề chỉnh; thành tựu các đặc điểm của một bé trai, thường được mọi người quấn quýnh yêu thương và chìu chuộng, [bé trai đó] là người đã vun trồng gốc rễ lành thiện.

Này người con trai của gia đình hiền thiện. Nếu người đàn bà ấy, ước muốn có con gái, thì cô ta sẽ có được con gái đoan chính, khôn ngoan, dễ thương; thành tựu sự hoàn hảo cao nhất của hình dáng kiều diễm[41]thành tựu các đặc điểm [tốt] của một bé trai, thường được mọi người quấn quýnh yêu thương và chìu chuộng, [bé gái đó] là người đã vun trồng gốc rễ lành thiện.

Như vậy, này người con trai của gia đình hiền thiện, đó là sức mạnh siêu việt của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara.

12.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Những ai thực hành sự tôn kính Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và hành trì danh hiệu của vị ấy, thì nhất định sẽ nhận được kết quả ích lợi không bao giờ cạn.

13.
Này người con trai của gia đình hiền thiện! Giả sử, có ai thực hành sự tôn kính Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và hành trì danh hiệu của ngài; Lại có một người khác, tôn kính chư Phật Thế Tôn có số lượng bằng gấp sáu mươi hai lần số hạt cát sông Gaṅgā, hành trì danh hiệu của các vị ấy; và phụng sự rất nhiều chư Phật Thế Tôn trong suốt thời gian các ngài lưu trú, hiện hữuduy trì đời sống, bằng cách hiến cúng những vật dụng như: y phục, bình bát, giường ghế và thuốc men chữa bệnh, ông nghĩ sao, sự tích lũy phước báu[42] mà người con trai hay con gái của gia đình hiền thiện đó, tạo ra được bởi nhân tố ấy là bao nhiêu?

Sau câu hỏi ấy, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir thưa lên đức Thế Tôn: “Rất nhiều, bạch Thế Tôn! Quả thật quá nhiều, bạch đức Thiện Thệ! Sự tích lũy phước báu của người con trai hay người con gái của gia đình hiền thiện ấy, đã tạo ra thông qua nhân tố ấy là rất nhiều.”

Đức Thế Tôn dạy tiếp:

“Này người con trai của gia đình hiền thiện! Xét thấy, sự tích lũy phước báu của hai người đó, thông qua việc tôn kính chư Phật Thế Tônsự tích lũy phước báu của một người dù chỉ một lần thực hành sự tôn kính Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và trì niệm danh hiệu của ngài, [cả hai] đều bằng nhau.”

Có ai tôn kính Chư Phật Thế Tôn có số lượng bằng gấp sáu mươi hai lần số hạt cát sông Gaṅgā, hành trì danh hiệu của các vị ấy, và có người nào khác thực hành sự tôn kính Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và trì niệm danh hiệu của ngài. Họ có sự tích lũy công đức bằng nhau; cả hai khối phước đức ấy không dễ gì hủy hoại dù [trải qua] trong hàng trăm ngàn, hàng trăm triệu, hàng trăm tỉ kiếp.

Vì vậy, này người con trai của gia đình hiền thiện, phước đức của việc hành trì danh hiệu Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara, rất là mênh mông[43].

14.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir bạch đức Thế Tôn:

“Vị Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara du hành[44] trong thế giới Sa-bà này ra sao?[45] Diễn thuyết giáo pháp cho hữu tình như thế nào?[46] Và những phương tiện thiện xảo mà Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara sử dụngphạm vi thế nào?”

Sau câu hỏi đó, Đức Thế Tôn đã trả lời cho Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir:

“1.Này người con trai của gia đinh hiền thiện! Trong khá nhiều thế giới, Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara diễn thuyết Pháp yếu cho các chúng sinh bằng cách biến thể dưới hình thái Phật-đà.

2. Đối với một số thế giới khác, vị ấy[47] diễn thuyết pháp yếu cho chúng sinh bằng cách biến thể dưới hình dạng Bồ-tát;

3. Trong trường hợp khác, vị ấy diễn thuyết pháp yếu cho chúng sinh bằng cách biến thể dưới hình dạng Bích-chi Phật;

4. Đối với một số chúng sinh, ngài diễn thuyết pháp yếu bằng cách biến thể dưới hình dạng Thanh văn;

5. Hoặc vị ấy diễn thuyết pháp yếu cho các chúng sinh bằng sự biến thể dưới hình dạng Phạm thiên;

6. Đối với một số chúng sinh ngài biến thể hình dạng đế Thích để diễn thuyết pháp yếu;

7. Hoặc ngài lại biến thể hình dạng Càn-thác-bà để diễn thuyết pháp yếu cho một số chúng sinh khác;

8. Hoặc đối với những chúng sinh cần được hóa độ bởi Dạ-xoa, ngài liền biến thể hình dạng Dạ-xoa để diễn thuyết pháp yếu;

9. Chúng sinh nào cần được hóa độ bởi Tự tại thiên, ngài biến thể hình dạng Tự tại thiên để diễn thuyết pháp yếu;

10. Hoặc đối với chúng sinh khác, cần được hóa độ bởi Đại Tự tại thiên, ngài liền biến thể hình dạng Đại Tự tại thiên để diễn thuyết pháp yếu;

11. Hoặc chúng sinh nào, cần được hóa độ bởi Chuyển luân vương, vị ấy biến thể hình dạng Chuyển luân vươngdiễn thuyết pháp yếu;

12. Đối với những chúng sinh nào cần được hóa độ bởi Tiểu Quỷ, vị ấy liền biến thể hình dạng Tiểu quỷ để diễn thuyết pháp yếu;

13. Hoặc có chúng sinh nào, cần được hóa độ bởi Đa văn Sa-môn, vị ấy biến thể hình dạng Đa văn Thiên vươngdiễn thuyết pháp yếu;

14. Lại có chúng sinh nào, cần được giáo hóa bởi Đại Tướng Quân, ngài liền biến thể hiện thân Đại Tướng Quân để dễ thuyết pháp yếu;

15. Hay chúng sinh nào cần giáo hóa bởi Bà-la-môn, ngài liền biến thể hình dạng Bà-la-môn mà diễn thuyết pháp yếu;

16. Và chúng sinh nào cần hóa độ bởi Kim cương thủ, Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara liền biến thể hình dạng Kim cương cương thủ mà diễn thuyết pháp yếu.

Này người con trai của gia đình hiền thiện, Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara thành tựu phẩm tính không thể nghĩ bàn như thế. Cho nên, này người con trai của gia đình hiền thiện, hãy tôn kính hiến cúng Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara.

Này người con trai của gia đình hiền thiện, Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara ban sự an ninh cho những chúng sinh đang lo sợ. Vì những lý do đó, mà ngài được thiết lập[48] danh hiệu Abhayaṃdada [người ban sự an ninh] trong Thế giới Sa-bà.

15.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir thưa với đức Thế Tôn: “Bạch đức Thế Tôn! Bây giờ chúng con muốn hiến cúng đức Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara một phẩm vật của Pháp[49], khôi giáp của Pháp[50]thích hợp chăng?”

Thế Tôn trả lời: “Này người con trai của gia đình hiền thiện! Nếu ông nghĩ điều đó là hợp thời thì hãy cứ làm như thế”.

Lúc ấy, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir từ cổ mình cởi xâu chuỗi trân bảo Anh lạc[51], trị giá trăm nghìn lượng [vàng miếng], và dâng lên Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara như là khôi giáp của Pháp, với những lời: “Hỡi bậc Thiện sĩ! Xin ngài hãy nhận lấy từ tôi chiếc khôi giáp của Pháp này”. Nhưng vị ấy không nhận lấy nó.

Rồi thì, Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir nói với Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara: “Hỡi bậc Thiện sĩ! Từ lòng bi mẫn đối với chúng tôi, hãy nhận lấy chuỗi trân bảo anh lạc này.” Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara nhận lấy chuỗi trân bảo anh lạc từ Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir, do bởi lòng bi mẫn đối với Bồ-tát Đại sĩ Akṣayamatir, từ lòng bi mẫn đối với bốn chúng, và từ lòng bi mẫn đối với chư Thiên, rắn thần, dạ-xoa, càn-thác-bà, a-tu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân loạiphi nhân loại.

Sau đó, vị ấy chia [xâu chuỗi] thành hai phần: một hiến cúng lên đức Thế Tôn Śākyamui và phần thứ hai là ngọc báu Stūpa hiến cúng lên đức Thế Tôn Prabhūtaratna, là bậc Như Lai, Chánh đẳng giác, vị đã tịch diệt hoàn toàn.

Này người con trai của gia đình hiền thiện! Bồ tát Đại sĩ Avalokiteśvara du hóa trong thế giới Sa-ha này với một năng lực biến thể như vậy.

16.
Và vì những lý do đó mà đức Thế Tôn đã cảm hứng những bài chỉnh cú này:

“1. Kitradhvaga[52] hỏi Akṣayamatir câu hỏi sau đây: Vì lý do gì, con trai của đấng Chiến Thắng, được gọi là Avalokiteśvara?
2. Và Akṣayamatir vị có sự nhận thức sâu thẳm như biển cả, sau khi chiêm nghiệm vấn đề ra sao, liền nói với Kitradhvaga: “Hãy lắng nghe sự nghiệp Avalokiteśvara”.
3. Những gì nghe được từ sự trình bày của tôi [về Avalokiteśvara] chỉ là một phần vắn tắt, bản nguyện mà vị ấy đã thực hành hoàn tất trong hàng trăm ngàn, hàng trăm triệu đời kiếp chư Phật, là không thể nghĩ bàn.
4. Lắng nghe và nhìn ngắm, suy nghiệm một cách thường xuyênliên tục về vị ấy, nhất định tất cả khổ đau, hữu thể, sầu muộn của chúng sinh sẽ bị hủy diệt hoàn toàn.
5. Nếu có ai bị rơi vào hầm lửa, bởi một kẻ ác với mục đích giết người ấy, mà người đó nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì dòng nước sẽ được rưới lên và lửa ấy sẽ bị dập tắt.
6. Hoặc có ai bị trôi dạt trên một đại dương kinh khiếp, là nơi trú ngụ của rắn thần, thủy quái và a-tu-la mà người đó nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì họ sẽ không bao giờ chìm xuống đại dương ấy.
7. Nếu một người bị rơi xuống từ vực núi chúa Meru, bởi một kẻ ác với mục tiêu giết người ấy mà người đó cho dù chỉ nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì họ giống như mặt trời đứng kiên cố trên bầu trời.
8. Hoặc có ai làm rung chuyển núi sấm sét và xô người rớt xuống từ chóp núi sấm xét để giết hại người đó, người đó chỉ cần nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì họ sẽ chẳng thể nào bị tổn thương dù chỉ một sợi tóc trên thân thể.
9. Nếu có người nào bị bao vậy bởi một toán kẻ thù có vũ khí là gươm đao, là những kẻ có ý định giết người đó mà người đó chỉ nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì lòng dạ những kẻ ấy sẽ nhanh chóng trở nên tử tế.
10. Nếu một người sắp bị những đao phủ hành hình, đã đứng ở nơi pháp trường mà người đó nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì thanh gươm của đao phủ sẽ bị đứt gãy thành từng đoạn.
11. Nếu một người bị xiềng xích bằng sắt hoặc bằng gỗ, người đó chỉ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì các trói buộc sẽ nhanh chóng được tháo gỡ.
12. Nếu có [người dùng] sức mạnh phép thuật, thần chú, dược thảo, ma quỷ, yêu tinh [để] gây nguy hiểm cho cho sự sống [của người khác] mà người [bị hại] đó nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì các thứ [độc hại] ấy đến từ chỗ nào thì sẽ trở về chỗ đó.
13. Hoặc có người nào bị bao vây bởi rắn thần, dạ-xoa, a-tu-la, hoặc những người phi thường, những loài [quỷ] có thói quen đoạt lấy khí lực của thân thể người khác, người đó chỉ cần nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì họ sẽ không thể nào bị tổn thương dù chỉ một sợi tóc trên thân thể.
14. Nếu có người nào bị bao vây bởi bầy thú dữ đáng sợ với hàm răng sắc nhọn và móng vuốt ghê rợn mà người đó nhớ nghĩ đến Bồ-tát Avalokiteśvara, thì [bầy thú ấy] chúng sẽ phải mau chóng tháo chạy về nhiều hướng.
15. Hoặc có người nào bị bao vây bởi những con rắn độc, phải chịu sự nguy hiểm và kinh khiếp từ các ngọn lửa và tia độc [do chúng phun ra], mà nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì chất độc của chúng sẽ nhanh chóng bị mất đi.
16. Nếu sấm sét dữ dội phát ra từ đám mây có chứa tia chớp và tiếng sấm mà có người nào nhớ nghĩ đến Avalokiteśvara, thì tia lửa sét trên bầu trời được tức khắc được tiêu tan.
17. Vị ấy bằng tri thức thanh tịnh của mình nhìn thấy hết thảy chúng sinh đang bị bủa vây bởi hàng trăm mối âu sầu và khốn đốn với rất nhiều đau khổ, do đó vị ấy là một đấng cứu khổ thế gian, kể cả chư thiên [cũng được cứu giúp].
18. Khi sức mạnh tư tưởng được vận dụng hoàn hảo, trí giác và phương tiện được đã thành đạt, vị ấy tự mình biến thể “ở mọi hướng và mọi nơi trên thế gian”.
19. Sự sinh ra, tuổi già và sự chết nhất định sẽ chấm dứt cho những ai đang sống trong định hướng tái sinh không tốt: chốn hành tội, sự tác thành như loài sinh ngang, trong cảnh vực Yama và cho tất cả chúng sinh [nói chung].
[Rồi thì, Akshayamati từ niềm vui sướng trong trái tim của mình đã nói ra những chỉnh cú sau:]
20. Hỡi đấng có đôi mắt trong trẽo, đôi mắt hiền lành, [đôi mắt] nổi bật lóe sáng với trí tuệnhận thức, đôi mắt tràn đầy sự bi mẫn và nhân từ. Ngài thật tuyệt đẹp bởi dung nhan tuyệt sắc và đôi mắt kiều diễm.
21. Vị Thanh Tịnh ấy là ánh sáng rạng ngời không tì vết, là sự tỏa rạng như mặt trời không bị đánh bại, là sự rực sáng như ngọn lửa, ngài trải hào quang của mình ra khắp mọi hướng trên thế gian.
22. Hỡi người vui hưởng sự tử tế có nguồn mạch từ bi, là đám mây lớn về những phẩm tính tốt đẹplòng nhân từ, ngài hãy dập tắt hoàn toàn ngọn lửa phiền não [của chúng sinh], bằng cách rưới mưa pháp cam lồ bất tử.
23. Trong cuộc cãi vả, kiện tụng, tranh đấu, chiến sự, trong bất cứ nguy hiểm lớn nào, nếu có ai nhớ nghĩ đến Bồ-tát Avalokiteśvara thì ngài sẽ chế ngự những kẻ thù hung ác.
24. Một người nên nghĩ đến Avalokiteśvara có âm thanh như đám mây, như tiếng trống, như tiếng sấm nổ ầm vang, như tiếng vầng mây tạo mưa rào, có giọng nói thanh cao như Phạm Thiên, [một giọng nói] xuyên qua toàn bộ âm vực giai điệu.
25. Hãy nhớ nghĩ, nhớ nghĩ với trạng thái tĩnh lặng về   Avalokiteśvara là thể trong suốt. Trong cơn chết chóc, thiên tai, thảm họa, vị ấy là người bảo hộ, là chỗ trú ẩn, là nơi nương tựa.
26. Vị ấy đạt đến sự toàn hảo tất cả các phẩm chất và nhìn ngắm toàn thể chúng sinh với lòng từ bi và rộng lượng. Vị ấy là đại dương của phẩm chất tuyệt đỉnh, là [hiện hữu của] phẩm tính chân thật. Avalokiteśvara, là đấng xứng đáng được kính lạy.
27. Vị ấy có lòng từ bi đối với thế gian, sẽ trở thành một vị Phật, phá hủy tất cả mọi khổ đau và nguy hiểm [cho chúng sinh], tôi cúi đầu kính lễ Avalokiteśvara.
28. Vị chúa tể thế gian này, là vua trong các vị vua, là người thành đầy đủ các Pháp Tỷ-khưu, được thế gian phụng sự. Sau khi trải qua rất nhiều kiếp sống của mình trong suốt hàng trăm lần thời gian vô tận, ngài đã đạt đến sự thanh tịnhgiác ngộ tối thượng.
29. Vị ấy có khi đứng bên phải, có khi đứng bên trái đức đạo sư Amitā mà hầu quạt, đồng thời bằng như huyễn tam-ma-địa phụng sự đấng Tối Thắng ấy trong tất cả mọi trú xứ.
30. Ở phương Tây, có thế giới Sukhāvatī hoan lạc vô nhiễm, có đức Đạo sư Amitābha, vị Điều ngự của chúng sinh, an trútồn tại.
31.  Ở đó không có người nữ sinh ra, và cũng hoàn toàn không có sự dâm dục; những người con của đấng Tối Thắng ngồi giữa lòng hoa sen không cấu nhiễmhóa sinh.
32. Và chính đức đạo sư Amitābha ngồi trên tòa sư tử bằng hoa sen thuần khiết khả ái, sáng ngời như Sa-la vương.
33. Đấng Đạo sư của thế gian như thế, trong ba cõi không ai sánh bằng. Kính lễ đấng Siêu nhân! Sau khi tán dương tụ phước đức của Ngài, mong cho con chóng được như Ngài.

17.
Bấy giờ, Bồ-tát Đại sĩ Dharaṇiṃdhara từ chỗ ngồi đứng lên, vắt thượng y qua một bên vai, đầu gối chân phải quỳ sát đất, chắp hai tay lại, hướng về đức Thế Tôn mà bạch rằng: “Những người đang nghe chương này, [tức] Pháp thoại về Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara và thần lực biến thể của Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara thì phải biết họ đã thành tựu không ít thiện căn”.

18.
Khi đức Thế Tôn đã thuyết giảng hoàn tất chương mô tả về sự toàn diện này, tám vạn bốn ngàn người hiện hữu trong chúng hội đó phát khởi tâm vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề mà không gì có thể so sánh được.



[1] Skt. akṣayamatir, Tib. blo gros mi zad pa [Lhasa:T-260a2], Lt. 無盡意 vô tận ý, có lẽ nên dịch là 無盡慧vô tận tuệ, vì “mati” có nghiã ‘tuệ’ nhiều hơn là ‘trí’, nên tiếng Anh dịch là: inexhaustible understanding (trí tuệ vô tận).

[2] Skt. uttara-āsaṅgam, Tib. bla gos, Hán: 鬱多羅僧 uất-đa-la-tăng, dịch là thượng y: áo trên.

[3] Bản tiếng Pháp thêm: “et posé à terre le genou droit”: đầu gối chân phải quỳ xuống sát đất.

[4] Tib. spyan ras gzigs kyi dbaṅ phyug. Lt. 觀世音 Quán thế âm.

[5] Skt. sattvakoṭīnayutaśatasahasrāṇi. Tib. sems can bye ba khrag khrig brgya stoṅ (Xem cht. 27, 28, 29, Giới thiệu nguồn gốc A-di-đà, tr. 267-268)

[6] Pratyuanubhavanti: pratī (hướng đến) + anubhavanti: hiện tại đang phải chịu, trải qua. Tib. myoṅ bar gyur pa. Lt. 受 thọ.

[7] Parimucyeran, do Parimuc: tự do, cởi trói, thoát ra từ…Tib. thar bar, Lt. 解脱 giải thoát

[8] duḥkhaskandhā: khối khổ đau, skandhā: đống, khối, một tụ. Tib. sdug bsṅal gyi.

[9] dhārayiṣyanti: động từ vị lai, ngôi thứ 3, số ít, do động từ: √dhṛ: giữ gìn, nên chữ này dịch sát phải là: duy trì hay bảo tồn, tức làm cho danh hiệu ngài luôn xuất hiện trong tâm trí. Tib. dzin-ba.

[10] prapateyuḥ: rơi xuống, xa chân xuống. Tib. lhuṅ naḥaṅ

[11] Mahatyagniskandhe: đống lửa to lớn, cũng có thể hiểu là hầm lửa lớn. Tib. meḥi phuṅ po chen por.

[12] Tejasā: năng lực ánh sáng, rực rỡ, cũng hiểu là oai thần hay thần lực. Tib. gzi brjid kyis.

[13] Nadībhir-uhyamānā: Nadībhir (dòng nước, dòng chảy của sông, Tib. cu kluṅ dag gis); uhyamānā: cuốn trôi, Tib. khyer la. Lt. 大水所漂 nước lớn cuốn trôi.

[14] Skt. ākrandaṃ kuryuḥ, Tib. bos na, kêu cứu, cầu cứu đến, than khóc với, sự thỉnh cầu… Lt. 稱, xưng.

[15] gādhaṃ: chỗ nông có thể lội qua được, không sâu, chỗ cạn. Tib. gtiṅ tshugs par.

[16] Về tiếng Skt. và cách dịch của từ châu báu này, xem Cht. 32, giới thiệu nguồn gốc A-di-đà, tr. 250-251.

[17] nidhīnāṃ: chấn động, bị dịch chuyển, Tib. doṅ ba de rnams.

[18] kālikā-vātena: gió tối tăm, gió màu đen. Lt. 黒風 hắc phong. Tib. rluṅ nag pos

[19] Tib. srin moḥi, loài ác quỷ trong văn học Ấn độ, ăn thịt hoặc hút máu người.

[20] saṃjñāyate: mệnh danh, gọi là, được gắn cho, thiết lập, tib. btags so

[21] vadhya-utsṛṣṭa: Vadhya: án tử hình, kết án tử hình, sự trừng phạt giết chết + utsṛṣṭa: bị đưa ra, bị dẫn đến, hiện đang phải chịu. Tib. bsad par bkri ba las.

[22] śastrāṇi: nghĩa đen là chỉ cho đao, kiếm, nhưng cũng chỉ cho các vũ khí, công cụ hành hình, có sức bén nhọn, hay có khả năng cắt chặt. Tib. mtshon.

[23] Vadhya-ghātakānāṃ: người hành quyết, đao phủ, người hành án. Tib. gśed ma

[24] Vikīryeran: tách lìa thành từng đoạn, Kern: shall snap asunder. Tib. de dag dum bu dum bur chag ciṅ grugs par ḥgyur ro.

[25] trisāhasramahāsāhasro lokadhātur, Lt. 三千大千國土Tam thiên đại thiên quốc độ, Tib. stoṅ gsum gyi stoṅ chen poḥi ḥjig rten gyi khams (Xem Giới thiệu, Cht. 62, tr. 273).

[26] paripūrṇo bhavet, Tib. gaṅ bar gyur kyaṅ, Lt. 滿 mãn.

[27] Yakṣa, dạ-xoa: một trong tám bộ chúng, hoặc đôi khi cũng chỉ các vị thần có oai lực lớn. cf. Trường A-hàm 12, Tì-bà-sa 31.

[28] draṣṭumapyaśaktāḥsyuḥ: draṣṭum, nhìn; apyaśaktāḥsyuḥ: không dám. Tib. ltaḥaṅ mi phod do.

[29] Skt. duṣṭacittā, Tib. sdaṅ baḥi sems kyis, tâm hận thù, tâm phẫn nộ. Lt. thêm: 況復加害: huống nữa làm tổn hại…

[30] Aparādhy-anaparādhī, Tib. ñes yod kyaṅ ruṅ ñes med kyaṅ ruṅ na. Tib. 若有罪若無罪 nhược hữu tội nhược vô tội.

[31] kṣipraṃ: tức thời, mau chóng, lập tức. Tib. bcug pa dag gi.

[32] vivaramanuprayacchanti, Tib. bu ga bye bar ḥgyur ro. Lt. 皆悉斷壞 đều bị hư hỏng.

[33] prabhāvaḥ: ức đức, ánh sáng, thế lực, bản Tib. mthu ni: hiệu lực/ sức mạnh, bản Nhật đọc là: uy lực 威力 (これが観世音菩薩の威力なのだ). Bản Pháp: la puissance – quyền năng, uy lực (Car telle est,… la puissance du Bôdhisattva Mahâsattva Avalôkitêçvara); Bản Anh, Kern đọc là: power.

[34] aśaraṇam ātmānaṃ, Tib. bdag cag skyabs med par. Chữ śaraṇam: cứu hộ, trú ẩn, bản Tib. skyabs med par: hiện tại không có nơi trú ẩn. bản tiếng Nhật đọc là 頼る nơi nương tựa, do hiểu là quy y (自分には何も頼るものがないと思うかもしれない). Bản Anh: helpless-nơi nương tựa. Bản Pháp: resource – chỗ trong cậy (il se reconnût sans resource). Bản Hán không có chi tiết này.

[35] abhayaṃdadam, bản Lt. 施無畏者 Thí vô úy giả. Tib. mi ḥjigs pa sbyin pa: người ban cho sự không sợ; Bản Pháp: người mang đến sự an ninh - qui donne la sécurité. Người ban tặng sự an toàn-the giver of safety. Abhayaṃ: An toàn, an ninh, trú ẩn, nương náu, không sợ hãi.

[36] Namo namas tasmā abhayaṃdadāya avalokiteśvarāya bodhisattvāya mahāsattvāya. Tib. ḥjigs pa med paḥi sbyin pa byaṅ chub sems dpaḥ sems dpaḥ chen po spyan ras gzigs dbaṅ phyug de la phyag ḥtshal lo.

[37] rāgacaritāḥ, tib. ḥdod chags spyod pa, Lt. 多於婬欲 đa ư tham dục.

[38] Skt. dveṣa-caritāḥ, Tib. she sdaṅ spyod pa, Lt. 若多瞋恚

[39] Skt. mohacaritāḥ, Tib. gti mug spyod pa, Lt. 若多愚癡

[40] Maha-rddhikaḥ, rddhi sức mạnh hay năng lực tâm linh, Hán thường dịch là thần thông.

[41] Bản Anh và Hán không dịch câu này, bản tiếng Pháp dịch: douée de la perfection suprême d’une belle forme.

[42] puṇyābhisaṃskāraṃ: hiện hành phước báu, abhisaṃskāra: hoạt động, hay sự dồn chứa, tích lũy lại thành một khối.

[43] aprameyaṃ: bao la, vô hạn.

[44] Pravicarati: du hành, dạo đi, đến đi, lui tới.

[45] ….sahāyāṃ lokadhātau pravicarati?

[46] kathaṃ sattvānāṃ dharmaṃ deśayati?

[47] Trong các biến thể hình thái của Đại sĩ ở đây, trong bản Skt. đều dùng đầy đủ danh hiệu ‘Bồ-tát Đại sĩ Avalokiteśvara’. Trong bản dịch này, để gọn văn chúng tôi thay bằng từ ‘vị ấy’/ ngài.

[48] saṃjñāyate

[49] Dharma-prābhṛtaṃ: món quà Pháp, tặng phẩm của Pháp. Kern dịch là: gift of piety món quà của lòng thành kính.

[50] Dharmācchādam: chiếc áo giáp của Pháp, áo Pháp. Kern: a decoration of piety: sự trang hoàng của pháp.

[51] Muktāhāram: anh lạc.

[52] Hán thường dịch: 莊嚴幢 Trang Nghiêm tràng.

______________________
THƯ MỤC VĂN BẢN:
- PHẠN BẢN:
Vaidya p. 250,1 (250,1)24: samantamukhaparivartaḥ ||
- HÁN BẢN:
T.263, Dharmarakṣa 竺法護, 286 A.D., p. 63a6 .
T.262, Kumārajīva 鳩摩羅什, 405 A.D., p. . 1100 A.D.? Kj mdo sde ja 16a7.
ANH BẢN: Kern 1884.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 27118)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21739)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22200)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23590)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20386)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20025)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21912)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24707)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 18949)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24693)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 30936)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 23950)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27741)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26483)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21264)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23187)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38075)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18788)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18404)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 19899)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 18980)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23118)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23852)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22767)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22885)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29547)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20608)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18679)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15819)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18811)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19619)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20125)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19909)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18093)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22886)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34140)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16396)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16892)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39167)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26012)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20073)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18792)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24027)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29076)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22888)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30897)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 20988)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26818)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20633)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26213)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23292)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19793)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24611)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 29962)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20181)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20372)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15107)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15793)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23835)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
(Xem: 19804)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant