Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kinh Nhất Dạ Hiền Giả

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 20636)
Kinh Nhất Dạ Hiền Giả

KINH NHẤT DẠ HIỀN GIẢ

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Trích trong: Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) 131)

Như vầy tôi nghe.

Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà lâm), tại tịnh xá ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo". --"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau: 

-- Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng cho các Ông: 'Nhứt dạ Hiền giả' (Bhaddekaratta), tổng thuyết và biệt thuyết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ thuyết giảng.

-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau: 

Quá khứ không truy tìm 
Tương lai không ước vọng.

Quá khứ đã đoạn tận, 

Tương lai lại chưa đến, 

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính ở đây.

Không động, không rung chuyển

Biết vậy, nên tu tập

Hôm nay nhiệt tâm làm, 

Ai biết chết ngày mai?

Không ai điều đình được, 

Với đại quân thần chết, 

Trú như vậy nhiệt tâm, 

Ðêm ngày không mệt mỏi

Xứng gọi Nhứt dạ Hiền, 

Bậc an tịnh, trầm lặng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là tưởng của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là hành của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy, "Như vậy, là thức của tôi trong quá khứ", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là truy tìm quá khứ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không truy tìm quá khứ? Vị ấy nghĩ: "Như vậy là sắc của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là thọ của tôi trong quá khứ", và không truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Như vậy là tưởng của tôi... Như vậy là hành của tôi... Như vậy là thức của tôi trong quá khứ"; và không truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không truy tìm quá khứ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào ước vọng tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy là tưởng của tôi... là hành của tôi... Như vậy là thức của tôi trong tương lai", và truy tìm sự hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ước vọng trong tương lai.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không ước vọng trong tương lai? Vị ấy nghĩ: "Mong rằng như vậy sẽ là sắc của tôi trong tương lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là thọ của tôi trong tương lai", và không truy tìm hân hoan trong ấy; "Mong rằng như vậy sẽ là tưởng... sẽ là hành... sẽ là thức của tôi trong tương lai, "và không truy tìm hân hoan trong ấy. Như vậy, này các Tỷ-kheo, ước vọng trong tương lai.

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có kẻ vô văn phàm phu không đi đến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh; không đi đến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân; quán sắc là tự ngã, hay quán tự ngã là có sắc, hay quán sắc là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong sắc, hay vị ấy quán thọ là tự ngã, hay quán tự ngã là có thọ; hay quán thọ là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thọ, hay vị ấy quán tưởng là trong tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán tưởng là tự ngã, hay quán tự ngã là có tưởng, hay vị ấy quán hành là tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là có hành, hay vị ấy quán hành là trong tự ngã, hay vị ấy quán tự ngã là trong hành; hay vị ấy quán thức là tự ngã, hay quán tự ngã là có thức, hay quán thức là trong tự ngã, hay quán tự ngã là trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có vị Ða văn Thánh đệ tử đi đến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đi đến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân. Vị này không quán sắc là tự ngã, không quán tự ngã là có sắc, không quán sắc là trong tự ngã, không quán tự ngã trong sắc; không quán thọ... không quán tưởng... không quán hành... không quán thức là tự ngã, không quán tự ngã là có thức, không quán thức trong tự ngã, không quán tự ngã trong thức. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là không bị lôi cuốn trong các pháp hiện tại.

Quá khứ không truy tìm 
Tương lai không ước vọng.

Quá khứ đã đoạn tận, 

Tương lai lại chưa đến, 

Chỉ có pháp hiện tại

Tuệ quán chính ở đây.

Không động, không rung chuyển

Biết vậy, nên tu tập

Hôm nay nhiệt tâm làm, 

Ai biết chết ngày mai?

Không ai điều đình được, 

Với đại quân thần chết, 

Trú như vậy nhiệt tâm, 

Ðêm ngày không mệt mỏi

Xứng gọi Nhứt dạ Hiền, 

Bậc an tịnh, trầm lặng.
Khi ta nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Ông: 'Nhứt dạ Hiền giả', tổng thuyết và biệt thuyết", chính duyên ở đây mà nói vậy.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Trích trong: Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) 131

 

Majjhima Nikaya 131
Bhaddekaratta Sutta
An Auspicious Day
Translated by Bhikkhu Thanissaro


Translator's Introduction

The title of this discourse has sparked some controversy, centered on the word "ratta." Modern translators in Asian vernaculars are unanimous in rendering it as "night," a reading seconded by Sanskrit and Tibetan versions of the discourse. Translators working in English have balked at this reading, however, on the grounds that the title it yields -- "Auspicious One-Night" -- makes no sense. Thus I.B. Horner drops the word "ratta" for her translation entirely; Ven Ñanamoli renders it as "attachment," yielding "One Fortunate Attachment"; and Ven. Ñanananda, taking his cue from Ven. Ñanamoli, renders it as "lover," yielding "Ideal Lover of Solitude." 

If we look at idiomatic Pali usage, though, we find that there is good reason to stick with the traditional reading of "night." There is a tendency in the Pali Canon to speak of a 24-hour period of day and night as a "night." This would be natural for a society that used a lunar calendar -- marking the passage of time by the phases of the moon -- just as it is natural for us, using a solar calendar, to call the same period of time a "day." As the verse that forms the summary of this discourse explicitly mentions one practicing "relentlessly both day and night," the "night" in the title of the discourse would seem to be a 24-hour, rather than a 12-hour, night -- and so I have chosen to render the Pali idiom into its English equivalent: An Auspicious Day. 

Ven. Ñanamoli is probably right in assuming that "bhaddekaratta" was a pre-Buddhist term that the Buddha adopted and re-interpreted in light of his own teaching. The point of the discourse would thus be that -- instead of the play of cosmic forces, the stars, or the lucky omens -- one's own development of the mind's attitude to time is what makes a day auspicious.

 


 
I have heard that on one occasion the Blessed One was staying in Savatthi, at Jetavana, the park of Anathapindika. There he addressed the monks: "Monks!"

"Yes, lord," the monks replied. 

The Blessed One said: "Monks, I will teach you the summary and exposition of one who has had an auspicious day. Listen and pay close attention. I will speak." 

"As you say, lord," the monks replied. 

The Blessed One said: 

One would not chase after the past,
nor place expectations on the future.

What is past

 is left behind.

The future

 is as yet unreached.

Whatever quality is present

one clearly sees right there,

 right there.

Unvanquished, unshaken,

that's how one develops the mind. 

Ardently doing one's duty today,
for -- who knows? -- tomorrow

 death may come.

There is no bargaining

with Death and his mighty horde. 

Whoever lives thus ardently,
 relentlessly

 both day and night,

has truly had an auspicious day:

So says the Peaceful Sage. 

"And how, monks, does one chase after the past? One gets carried away with the delight of 'In the past I had such a form (body)'...'In the past I had such a feeling'...'In the past I had such a perception'...'In the past I had such a thought-fabrication"...'In the past I had such a consciousness.' This is called chasing after the past.

"And how does one not chase after the past? One does not get carried away with the delight of 'In the past I had such a form (body)'...'In the past I had such a feeling'...'In the past I had such a perception'...'In the past I had such a thought-fabrication"...'In the past I had such a consciousness.' This is called not chasing after the past. 

"And how does one place expectations on the future? One gets carried away with the delight of 'In the future I might have such a form (body)'...'In the future I might have such a feeling'...'In the future I might have such a perception'...'In the future I might have such a thought-fabrication"...'In the future I might have such a consciousness.' This is called placing expectations on the future. 

"And how does one not place expectations on the future? One does not get carried away with the delight of 'In the future I might have such a form (body)'...'In the future I might have such a feeling'...'In the future I might have such a perception'...'In the future I might have such a thought-fabrication"...'In the future I might have such a consciousness.' This is called not placing expectations on the future. 

"And how is one vanquished with regard to present qualities? There is the case where an uninstructed run-of-the-mill person who has not seen the noble ones, is not versed in the teachings of the noble ones, is not trained in the teachings of the noble ones, sees form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form. 

"He/she sees feeling as self, or self as possessing feeling, or feeling as in self, or self as in feeling. 

"He/she sees perception as self, or self as possessing perception, or perception as in self, or self as in perception. 

"He/she sees thought-fabrications as self, or self as possessing thought-fabrications, or thought-fabrications as in self, or self as in thought-fabrications. 

"He/she sees consciousness as self, or self as possessing consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. This is called being vanquished with regard to present qualities.

"And how is one not vanquished with regard to present qualities? There is the case where a noble disciple who has seen the noble ones, is versed in the teachings of the noble ones, is well-trained in the teachings of the noble ones, does not see form as self, or self as possessing form, or form as in self, or self as in form. 

"He/she does not see feeling as self, or self as possessing feeling, or feeling as in self, or self as in feeling. 

"He/she does not see perception as self, or self as possessing perception, or perception as in self, or self as in perception. 

"He/she does not see thought-fabrications as self, or self as possessing thought-fabrications, or thought-fabrications as in self, or self as in thought-fabrications. 

"He/she does not see consciousness as self, or self as possessing consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. This is called not being vanquished with regard to present qualities. 

One would not chase after the past,
nor place expectations on the future.

What is past

 is left behind.

The future

 is as yet unreached.

Whatever quality is present

one clearly sees right there,

 right there.

Unvanquished, unshaken,

that's how one develops the mind.

Ardently doing one's duty today,
for -- who knows? -- tomorrow

 death may come.

There is no bargaining

with Death and his mighty horde.

Whoever lives thus ardently,
 relentlessly

 both day and night,

has truly had an auspicious day:

So says the Peaceful Sage. 

"'Monks, I will teach you the summary and exposition of one who has had an auspicious day.' Thus it was said, and in reference to this was it said."

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words. 

 


Source: http://world.std.com/~metta/canon/majjhima/mn131.html
(Revised: 9 November 1998 )

Bhaddekaratta Sutta:
The Discourse on the Ideal Lover of Solitude translated from the Pali by Bhikkhu Ñanananda © 2005–2010 Alternate translation: Thanissaro

Editor's note: An extensive discussion of this sutta may be found in Ideal Solitude: An Exposition on the Bhaddekaratta Sutta by the translator.

Thus have I heard: At one time the Exalted one was living at Saavatthi in the Jeta Grove, Anaathapi.n.dika's monastery. There he addressed the monks thus: "Monks." "Revered one," the monks answered the Exalted One in assent. The Exalted one spoke thus "Monks, I shall preach to you the summary and the exposition of the Ideal Lover of Solitude. Listen and give attention. I shall speak." "Even so, revered sir," the monks answered the Exalted One in assent. The Exalted One said this:

Let one not trace back the past Or yearn for the future-yet-to-come. That which is past is left behind Unattained is the "yet-to-come." But that which is present he discerns — With insight as and when it comes. The Immovable — the-non-irritable. In that state should the wise one grow Today itself should one bestir Tomorrow death may come — who knows? For no bargain can we strike With Death who has his mighty hosts. But one who dwells thus ardently By day, by night, untiringly Him the Tranquil Sage has called The Ideal Lover of Solitude.

"And how, monks, does one trace back the past? He thinks: 'I was of such form in the past' and brings delight to bear on it. He thinks: 'I was of such feeling in the past' and brings delight to bear on it. He thinks: 'I was of such perception in the past' and brings delight to bear on it. He thinks: 'I was of such formations in the past' and brings delight to bear on them. He thinks: 'I was of such consciousness in the past' and brings delight to bear on it. That is how, monks, one traces back the past.

"And how, monks, does one not trace back the past? He thinks: 'I was of such form in the past' but brings no delight to bear on it. He thinks: 'I was of such feeling... of such perception... of such formations...'... He thinks: 'I was of such consciousness in the past' but brings no delight to bear on it. That is how, monks, one does not trace back the past.

"And how, monks, does one yearn for the future? He thinks: 'I may have such form in the future' and brings delight to bear on it. He thinks: 'I may have such feeling... such perception... such formations...'... He thinks: 'I may have such consciousness in the future' and brings delight to bear on it. That is how, monks, one yearns for the future.

"And how, monks, does one not yearn for the future? He thinks: 'I may have such form in the future' but brings no delight to bear on it. He thinks: 'I may have such feeling... such perception... such formations...'... He thinks: 'I may have such consciousness in the future' but brings no delight to bear on it. That is how, monks, one does not yearn for the future.

"And how is one drawn into present things? Herein, monks, an uninstructed ordinary man who takes no account of the Noble Ones, is unskilled in the Dhamma of the Noble Ones, untrained in the Dhamma of the Noble Ones, taking no account of the good men, unskilled in the Dhamma of the good men, untrained in the Dhamma of the good men, looks upon form as self, or self as possessed of form, or form as in self, or self as in form. He looks upon feeling as self, or self as possessed of feeling, or feeling as in self, or self as in feeling. He looks upon perception as self, or self as possessed of perception, or perception as in self, or self as in perception. He looks upon formations as self, or self as possessed of formations, or formations as in self, or self as in formations. He looks upon consciousness as self, or self as possessed of consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. That is how, monks, one is drawn into present things.

"And how, monks, is one not drawn into present things? Herein, monks, an instructed Noble disciple who takes into account the Noble Ones, skilled in the Dhamma of the Noble Ones, trained in the Dhamma of the Noble Ones, taking into account the good men, skilled in the Dhamma of the good men, trained in the Dhamma of the good men, does not look upon form as self, or self as possessed of form, or form as in self, or self as in form. He does not look upon feeling as self... He does not look upon perception as self... He does not look upon formations as self... He does not look upon consciousness as self, or self as possessed of consciousness, or consciousness as in self, or self as in consciousness. That is how, monks, one is not drawn into present things.

Let one not trace back the past Or yearn for the future-yet-to-come. That which is past is left behind Unattained is the "yet-to-come." But that which is present he discerns — With insight as and when it comes. The Immovable — the-non-irritable. In that state should the wise one grow Today itself should one bestir Tomorrow death may come — who knows? For no bargain can we strike With Death who has his mighty hosts. But one who dwells thus ardently By day, by night, untiringly Him the Tranquil Sage has called The Ideal Lover of Solitude.

So it was with reference to this that it was said: "Monks, I shall preach to you the summary and the exposition of the Ideal Lover of Solitude."

Thus spoke the Exalted One, Delighted, those monks rejoiced in what the Exalted One had said.

(http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.131.nana.html)

Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26647)
Nếu chúng ta thẩm tra thế giới tinh thần của chúng ta, chúng ta thấy rằng có những nhân tố tinh thần đa dạng có cả những khía cạnh tích cựctiêu cực.
(Xem: 28244)
Càng trau dồi, Giác Trí càng khai mở thì Pháp Phật càng sáng tỏ hơn; giống như càng nghiên cứu học hỏi thì kiến thứctư tưởng càng phong phú và sâu sắc hơn.
(Xem: 29379)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 33280)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 21762)
Để dễ tiếp cận, chúng ta sẽ nêu câu hỏi cụ thể, rằng “Ai đã vượt qua cả thiện và ác?” và các trích dẫn nơi đây sẽ chỉ tập trung riêng vào Kinh Pháp Cú (Dhammapada).
(Xem: 30647)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31258)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37150)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32304)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 27124)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 20614)
Theo Trung Quán, duyên khởi không có nghĩa là nguyên lý của một tiến trình ngắn ngủi, mà là nguyên lý về sự lệ thuộc vào nhau một cách thiết yếu của các sự vật.
(Xem: 22246)
Vì sự vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, nên tâm khôngtự tính. Sáu thức hay tâm thức đã vô thường thì nó cũng không có chơn thật.
(Xem: 23984)
Nói khái quát, Phật giáo quan niệm thực tại không ngừng biến chuyểnbác bỏ khái niệm bền vững lâu dài. Tất cả là một dòng sát na sinh diệt liên tục, tất cả là lưu chú...
(Xem: 22865)
Với hy vọng và một cảm giác hạnh phúc, thân thể chúng ta cảm thấy an lạc. Vậy nên hy vọnghạnh phúc là những nhân tố tích cực cho sức khỏe của chúng ta.
(Xem: 23203)
Một quan điểm khách quan mà nói, các kinh dù nguyên thủy hay phát triển, cốt tủy Giác Ngộ được Cứu CánhGiải Thoát khỏi dòng Tâm Thức vẩn đục...
(Xem: 30408)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30078)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 23125)
Này các Tỳ-khưu, Ta không tranh luận với đời, chỉ có đời tranh luận với Ta. Này các Tỳ-khưu, người nói Pháp không tranh luận bất cứ với một ai ở đời.
(Xem: 22321)
Thưa Ðại vương, chính phải có giao tiếp mới biết được sự thanh liêm của một người, và như vậy, phải trong một thời gian dài...
(Xem: 21783)
Sodpa hay Nhẫn nhục ba la mật là một trong những pháp thực hành Bồ tát đạo quan trọng nhất. Có những hoàn cảnh đặc biệt bạn cần phải thực hành hạnh Sodpa.
(Xem: 28219)
Các Tỷ kheo thực hành pháp an cư, là biểu hiện mẫu mực đời sống ly dục, tịch tịnh của một vị A la hán. Đời sống ấy được thực hành miên mật đầy đủ bốn chất liệu thanh tịnh...
(Xem: 19254)
Với Phật giáo, sống là sống với. Do đó, bạn bè là một thuộc tính riêng có của các loài chúng sanh nói chung và của con người nói riêng...
(Xem: 20143)
Muốn đền đáp ân đức cha mẹ là khi cha mẹ chưa có lòng chính tín thì khuyên bảo cha mẹ có lòng chính tín để có được nơi an ổn từ niềm tin đó...
(Xem: 30900)
Phật dạy: “Nếu vị a-xà-lê cùng người tu hành muốn tu hạnh Bồ-đề phần pháp và các món thành tựu, nên đối với pháp của Quán Tự Tại Bồ-tát mà tu tập.
(Xem: 41505)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 0159 - Hán dịch: Đường Bát Nhã; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 32716)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 19118)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật. Các vị Tỳ-khưu quyết định trùng tụng trong dịp an cư...
(Xem: 34013)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 24965)
Ai khôn ngoan muốn cầu hạnh phúcước mong sống với an lành Phải tài năng, ngay thẳng, công minh...
(Xem: 23681)
Tung rải từ tâm khắp vũ trụ Mở rộng lòng thương không giới hạn Tầng trên, phía dưới và khoảng giữa... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 25315)
Ta hãy đem lòng từ bi không giới hạn của ta mà bao trùm cả thế gian và muôn loài, từ trên xuống dưới, từ trái sang phải... HT Thích Nhất Hạnh dịch
(Xem: 27766)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 24995)
Ðức Thế Tôn Chánh Ðẳng Chánh Giác từ lúc phát tâm tu tập cho đến nay đã thành tựu, vì muốn độ người nên an trú tại thành Xá vệ. Chư Thiên, nhân loại cung kính cúng dường...
(Xem: 23822)
Tâm kinh Bát-nhã là một bản kinh trọng yếu trong nhà Thiền, bản kinh này nói về “tánh không” của các pháp. Người tu Phật phải mở được cánh cửa trí tuệ...
(Xem: 58688)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 23204)
Từ bi bác ái, tự giác giác tha. Ấy là mục đích của bậc chơn tu chánh đạo. Xưa, Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh trong bốn mươi chín năm...
(Xem: 20888)
Như Lai sẽ nhập niết-bàn trong vòng ba tháng nữa, nên các tỷ-khưu, tỷ-khưu ni cũng như vô số các loài hữu tình đến để cung kính đảnh lễ.
(Xem: 28154)
Ngay từ lúc hóa sinh ở đấy, nguyện cho con đạt đến chính tư duy, chính định, tâm linh không điều kiện của giác ngộ, vô tận biện tài, và vô số kho tàng của tuyệt diệu như thế...
(Xem: 28911)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở thành Vương Xá, trong núi Kỳ Xà Quật, cùng với các vị Đại Tỳ Khưu, hai vạn tám ngàn người, đều là những bậc chỗ sở tát đã xong, phạm hạnh đã lập...
(Xem: 19207)
Ở một chừng nào đó có thể hiểu, đi theo con đường của Phật, noi theo công hạnh của Phật, để cuối cùng được kết quả như Phật… thì được xem là đang làm việc Phật.
(Xem: 24596)
Nội dung của Kinh Di Giáo là những lời dạy của đức Thế Tôn trước khi nhập diệt. Lời lẽ đã tha thiết, ý nghĩa lại sâu xathực tế.
(Xem: 21425)
Bổn phận của người Xuất Giatu đạo, truyền đạoduy trì Phật giáo, cho đến thực hiện tinh thần Bồ-tát nhập thế, còn bổn phận của người Tại Gia là ở bên ngoài hộ trì Phật giáo.
(Xem: 23844)
Diệu Pháp Liên Hoa, đề kinh được cấu tạo theo thể cách Pháp và Dụ. Diệu Pháp ám-tỷ cho cái Tri Kiến Phật nhiệm mầu vốn có của tất cả chúng sanh...
(Xem: 28608)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nhân duyên từ đời trước mà cảm quả báo.
(Xem: 29404)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 17637)
Đức Phật chỉ cho phép dùng rượu để làm thuốc chữa bệnh hay nấu ăn, nhưng phải trừ khử mùi vị, màu sắc của rượu, ngoại trừ khi dùng rượu làm thuốc thoa.
(Xem: 31014)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25331)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 18954)
Bồ tát giới Phạm võng phải được gọi là Đại thừa giới. Đại thừa giớibản nguyên của chúng sinh, là Phật tánh đầy phẩm chất Phật... HT Thích Trí Quang
(Xem: 20132)
Nghiệp báo, trước tiên nhất có nghĩa là hành động. Chúng ta phân biệt một loại nghiệp báo, là bản chất tinh thần, một nhân tố tinh thần...
(Xem: 23945)
Để có thể chấp nhận cả cái tốt lẫn cái xấu một cách tự tại, bạn cần phải nắm chắc trong tay một nguyên lí đó là tính cách “vô phân biệt” (không hai, không khác) của Bát nhã.
(Xem: 19036)
Theo lời dạy của Đức Phật, sắc sanh như là các hạt nhỏ. Các hạt nhỏ này có thể nhỏ hơn các nguyên tử. Khi quý vị thực hành thiền tứ đại một cách có hệ thống...
(Xem: 20155)
Diệu pháp đại thừa pháp Liên hoa một đóa trăng Cõi trời người cung kính Quy mạng đốn giác môn.
(Xem: 20035)
Đức Phật là vị thầy, người hướng dẫn và chỉ đạo tâm linh của chúng ta. Do thế, những hành vi thân thể, lời nóitư tưởng phải phù hợp với lời dạy của ngài.
(Xem: 24822)
Đông-Tấn, Sa-Môn Thích-Pháp-Hiển dịch chữ Phạn ra chữ Hán, HT Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
(Xem: 19398)
Chúng ta sống trong không gian vô cùngthời gian vô tận tất phải có nhận thức về thế gian. Thế gianmột thế giới hiện tượng lưu chuyển mãi...
(Xem: 22568)
Tất cả các đệ tử đã đến đây, bởi đang tìm kiếm sự giải thoáthạnh phúc vô song tối thượng của sự toàn giác. Mọi người tập họp ở đây vì chúng sinh, vì Giáo Pháp...
(Xem: 61816)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh.
(Xem: 31134)
Vâng, để Giác Ngộ, chỉ cần xoáy vào một chữ tâm đó thôi. Chỉ cần an trụ, chỉ cần hàng phục được cái tâm đó là xong! Nghĩa là trở thành một bậc Giác ngộ, ngang hàng với Phật...
(Xem: 22112)
Kinh Rong Chơi Trời Phương Ngoại là một phẩm của Kinh Pháp Cú Hán tạng có tên là Nê Hoàn Phẩm. Nê HoànNiết Bàn (Nirvana, Nibbana).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant