Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1.1 Nguồn Gốc Tên Kinh

20 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 7901)
1.1 Nguồn Gốc Tên Kinh


Hạnh Phúc Mộng Và Thực

Nhất Hạnh

CHƯƠNG 1

TÊN VÀ NGUỒN GỐC KINH TAM DI ĐỀ

1.1 Nguồn Gốc Tên Kinh

Kinh Tam Di Đề hiện giờ ta có ba bản, một bản tiếng Pali và hai bản chữ Hán (Tạp A Hàm và Biệt Dịch Ta A Hàm). Kinh Tam Di Đề mà ta đang đọc được dịch từ Hán Tạng, đó là kinh số 1078 trong Tạp A Hàm.

Tam Di Đề tiếng Phạn là Samiddhi, Samiddhi là tên của một thầy còn trẻ, khoảng 22, 23 tuổi. Thầy Samiddhi được sinh ra trong một gia đình trâm anh thế phiệt, sống tại thủ đô Vương Xá (Ràjagaha).

Ngày xưa trước khi thành đạo, Bụt có hứa với vua Tần Bà Xa La (Bimbisara) là sau khi thành đạo thế nào Ngài cũng về để giúp vua. Lúc đó Bụt còn là một vị sa môn đang đi tìm đạo và hai người đã gặp nhau trên một khu đồi ở gần Thành Vương Xá. Vua Tần Ba Xa La rất cảm phục Bụt và đã khẩn khoản mời Ngài về làm Quốc Sư, nhưng Bụt đã nói: “Bần đạo xin cảm tạ tấm lòng chiếu cố của Đại Vương, nhưng quả thật giờ đây bần đạo chỉ có một ước vọng mà thôi, đó là ước vọng tìm cho ra chánh đạo để cứu giúp muôn loài. Cuộc sống rất vô thường, cái khổ của sinh, lão, bệnh, tử luôn luôn rình rập ta, những ngọn lửa phiền não từ nội tâm như tham vọng, giận dữ, oán thù, si mê, ganh ghétkiêu mạn đang nung nấu tâm hồn ta, và ta chỉ có thể đạt tới an lạc thật sự nếu ta tìm được con đường tu tập. Chỉ khi nào Đạo Lớn được tìm ra thì mọi loài mới có con đường giải thoát. Nếu Bệ Hạ có lòng yêu mến bần đạo, xin Bệ Hạ để cho bần đạo được theo đuổi con đường mà kẻ tu hành này đã hướng đến từ lâu. Bần đạo xin hứa là khi nào tìm ra được đạo, bần đạo sẽ trở về chia xẻ với Đại Vương”.

Vì vậy sau khi thành đạo, lập được tăng thân ở Vườn Nai, trở về thăm cây bồ đề, điều phục ba anh em ông Ca Diếp thờ Thần Lửa, và thu nhận gần một ngàn môn đồ của ba vị này làm đệ tử xuất gia, Bụt đã đưa cả giáo đoàn đó về thủ đô Vương Xá, cư trú tại Rừng Kè mới trồng ở ngoại ô, cách thủ đô hai dặm về phía Nam. Buổi sáng giáo đoàn được phép vào thành để khất thực. Các vị khất sĩ tổ chức thành từng chúng hai mươi lăm người, bước từng bước khoan thai và có ý thức, tay ôm bình bát, mắt nhìn thẳng về phía trước, dáng điệu rất uy nghi. Dân chúng trong thành rất ngạc nhiên khi thấy có một giáo đòan khất sĩ mới, đông đảo nhưng rất trang nghiêm. Bụt cũng đã đi khất thực chung với các thầy. Cgỉ trong vòng nửa tháng, phần lớn dân chúng thủ đô đã biết tới sự có mặt của giáo đoàn khất sĩ do Bụt lãnh đạo. Tiếng đồn tới tai vua và vua biết là Người xưa đã trở về, Bụt chưa kịp đi thăm vua thì một buổi chiều, vua cùng hoàng hậu và thái tử đã ngồi xe tứ mã tìm về Rừng Kè để thăm Bụt. Tháp tùng vua có nhiều nhân sĩ, trí thứclãnh đạo cao cấp trong giới Bà la môn, trong đó có thân phụ của Samiddhi. Lúc đó Samiddhi là một người trẻ, cũng được đi theo phái đoàn. Cố nhiên chàng không phải là một thanh niên tầm thường. Nếu không có tài, không có ưu thế trong xã hội thì đâu dễ gì chàng được tham dự vào phái đoàn để đi thăm Bụt.

SƯ CHÚ SAMIDDHI VÀ MA VƯƠNG

Ngay lần đầu được gặp Bụt và chứng kiến cuộc nói chuyện giữa Bụt và vua Tần Bà Xa La, Samiddhi đã có ý định muốn xuất gia, và người trai trẻ này là một trong những thanh niên đầu tiên ở thành Vương Xá được chấp nhận vào giáo đoàn của Bụt và thầy sống rất an lạc. Sau vài ba năm tu học, trong một đêm thiền tọa thầy Samiddhi quán chiếu thấy mình thật may mắn đã được chấp nhận vào trong giáo đoàn mầu nhiệm này và thầy cảm thấy rất hạnh phúc. Bỗng nhiên thầy nghe một tiếng nổ kinh hoàng giống như là trái đất vỡ tung, làm thầy rất hoảng sợ.

Ngày hôm sau tìm tới Bụt thầy kể lại câu chuyện đã xảy ra: “Bạch Đức Thế Tôn, con đang thiền tọa rất an lạc, đang ý thức được sự may mắn của con vì được xuất gia từ lúc còn trẻ tuổi, thì tự nhiên có một tiếng nổ giống như quả đất này đang vỡ tung. Con đã rất sợ nên đến với Đức Thế Tôn để hỏi Ngài là con phải đối trị với cái sợ ở trong con như thế nào?” Bụt nói: “Này Samiddhi Đó là ma phiền não trong tâm quấy nhiễu con. Con chỉ cần biết đó là ma phiền não thôi thì tự nhiên con sẽ bình an, hết sợ. Con đừng đi trốn ở một nơi khác, cứ ở ngay chỗ đó để tu học”.

Vài ngày sau khi trở về trung tâm đó, cũng vào nửa đêm, trong khi thiền tọa, thầy Samiddhi lại nghe một tiếng nổ kinh hoàng giống như kỳ trước. Thầy mỉm cười, thở vào, thở ra, và nói: “Đây là ma phiền não, ta nhận biết cái hạt giống sợ hãi ở trong ta rồi”. Và mầu nhiệm thay tất cả những sợ hãi đó đều biến mất và tiếng nổ kia không bao giờ còn được nghe nữa. Từ đó trở đi thầy Samiddhi sống rất an lạctu học rất tinh chuyên trong giáo đoàn mầu nhiệm này.

Câu chuyện trên đây có nghĩa là trong thời gian tu học, có thể sự nghi ngờsợ hãi xảy ra trong tâm ta. Đôi khi sự nghi ngờ hoặc sợ hãi đó rất lớn, giống như một tiếng nổ kinh hoàng, giống như trái đất sắp nổ tung. Nhưng ta không nên lo lắng, tại vì tất cả những sợ hãinghi ngờ đó đã từ tâm ta phát sinh. Ta chỉ cần nhận diện sự có mặt của chúng thì chúng sẽ không làm gì được ta. Trong khi tu hành, nếu ta sinh ra tâm niệm chán nản, thì tâm niệm chán nản đó cũng là ma phiền não. Đó là một hạt giống trong tâm địa đã nảy mầm. Ta không cần phải chạy trốn, ta chỉ cần mỉm cười, thở vào, thở ra, và nói rằng: Hạt giống của chán nản ơi! Người vừa xuất hiện, ta biết sự có mặt của ngươi, thì hạt giống đó không làm gì được ta.

Một lần khác, thầy Samiddhi đã gặp và đàm luận với một vị ngoại đạo khá nổi tiếng, vị này là một nhà triết học. Lúc đó Đức Thế Tôn đã được vua Tần Bà Xa La (Bimbisara) cúng dường cho một khu rừng tre rất đẹp ở cạnh thành Vương Xá, gọi là Tu Viện Trúc Lâm. Trong rừng có rất nhiều con sóc hiền lành. Hôm ấy thầy Samiddhi đang ngồi trong một cái thất ở rừng tre thì có một vị du sĩ ngoại đạo tên là Totali Budtha đến gặp thầy và hỏi về giáo lý đạo Bụt. Ông ta hỏi về thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp và về cảm thọ. thầy Samiddhi đã giảng, đã giải thích cho vị du sĩ đó, Kiến thức của thầy lúc bấy giờ chưa vững, cho nên khi biết chuyện, Bụt có hỏi lại Samiddhi. Samiddhi đã nói vài điều không đúng lắm với chánh pháp nên bị Bụt quở. Hôm đó Samiddhi hơi có nội kết, tự giận mình mới tu nên còn non yếu. Nhưng nội kết đó đã rất tốt cho quá trình tu học của thầy.

Đây là những điều quí vị nên biết trước khi đọc Kinh Tam Di Đề, nếu không mình sẽ không hiểu một vài chi tiết ở trong kinh. Câu chuyện thầy Samiddhi bị Bụt rầy được ghi lại trong Kinh Đại Nghiệp Phân Biệt, tức là Kinh 136 ở trong Trung bộ Kinh.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31319)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26211)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27504)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27877)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26692)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31190)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20246)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22884)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 30019)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21542)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20219)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22627)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20736)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30272)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28755)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34694)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44192)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35486)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22518)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21339)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20658)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24743)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37876)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 19015)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19306)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21784)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20852)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29502)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35083)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28799)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32588)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26200)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28909)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43113)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34911)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43884)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37851)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21314)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 43005)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48994)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39809)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53766)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36806)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40781)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49719)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47292)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27675)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 27013)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27213)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24062)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20831)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34299)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22446)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25087)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25817)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22931)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22459)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21737)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23309)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21152)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant