Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mi Tiên Vấn Đáp (Milinda Panha)

24 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 21369)
Mi Tiên Vấn Đáp (Milinda Panha)

MI TIÊN VẤN ĐÁP (MILINDA PANHA)
Dịch giả: Hòa thượng Giới Nghiêm (Maha Thera Thita Silo)
Tỳ kheo Giới Đức hiệu đính, ấn bản 2003

MỤC LỤC

Tiểu sử Hòa thượng Giới Nghiêm
Lời nói đầu
Kệ lễ bái Tam bảo
[00.1] I. PHẦN DẪN NHẬP
1. Ngoại thuyết (Bàhirakathà)
2. Câu chuyện liên quan trong tiền kiếp (Pubbapa yoga)
2.1. Chuyện về ĐỨC VUA MI-LAN-ĐÀ
2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN
2.3. Thấp thoáng bóng Sư Tử
[01] II. NỘI DUNG MI-TIÊN VẤN ĐÁP
1. Danh
2. Con số hạ lạp
3. Đàm thoại như một Trí giả hay như một Vương giả
4. Thỉnh mời vào Hoàng cung
5. Cứu cánh của Sa môn hạnh
6. Tái sanh - Vô sanh
7. Chú tâm
8. Hành tướng của chú tâmtrí tuệ cùng sự khác nhau giữa chúng
9. Tất cả Pháp lành lấy Giới làm sở y
10. Hành tướng của Tín
11. Hành tướng của Tấn
12. Hành tướng của Niệm
13. Hành tướng của Định
14. Hành tướng của Tuệ
15. Ngũ căn - riêng và chung
16. Tương quan thân trước và sau
17. Tái sanhvô sanh
18. Trí tuệ
19. Bậc vô sanh có còn đau khổ không?
20. Cảm thọ
[02] 21. Cái gì dẫn dắt đi tái sanh?
22. Không nên hỏi lại câu đã hỏi
23. Danh sắc tương quan liên hệ
24. Thời gian và không còn thời gian
25. Nguyên nhân của thời gian
26. Thời gian tối sơ?
27. Có rồi không! Không rồi có!
28. Pháp hành thì sao?
29. Tự nhiên sanh?
30. Tự ngã trong thân?
31. Nhãn thứctâm thức
32. Hành tướng của Xúc
33. Hành tướng của Thọ
34. Hành tướng của Tướng
35. Hành tướng của Tác Ý
36. Hành tướng của Thức
37. Hành tướng của Tầm
38. Hành tướng của Tứ (hay Sát)
39. Lại hỏi về "Chú Tâm"
40. Những tâm sở đồng sanh
41. Về năm giác quan
42. Bất bình đẳng sai khác của chúng sanh là do nghiệp
43. Sớm ngăn ngừa điều ác
44. Lửa địa ngục
45. Nước dựa khí
46. Niết bàn
47. Ai sẽ đắc Niết bàn
48. Làm sao biết Niết bàntối thượng lạc
[03] 49. Có Phật không?
50. Phật là tối thượng tôn bảo
51. Phật tối thắng như thế nào?
52. Thấy Phật
53. Khi chết ngũ uẩn diệt theo
54. Vedagù?
55. Nếu chết mà diệt hết thì thoát khỏi nghiệp
56. Nghiệp trú ở đâu
57. Biết còn tái sanh?
58. Phật ở đâu?
59. Thương yêu cái thân?
60. Bậc toàn giác biết tất cả
61. Tại sao Phật không giống cha mẹ Ngài
62. Thực hành phạm hạnh (Brahmacàri)
63. Ai truyền cụ túc giới cho Đức Phật?
64. Nước mắt nào là thuốc? Nước mắt nào là độc dược?
65. Tham luyến và dứt tham luyến
66. Trí tuệ ở đâu?
67. Luân hồi
68. Trí nhớ
69. Ai cũng có trí nhớ
70. Có bao nhiêu loại trí nhớ
71. Tương quan phước và tội
72. Diệt khổ chưa đến?
[04] 73. Cõi Phạm Thiên bao xa?
74. Thời gian tái sanh
75. Sự liên hệ giữa kiếp này với kiếp kia
76. Vào cửa nào để đầu thai?
77. Nhân sanh giác ngộ
78. Điều lành nhỏ, phước quả lớn. Điều ác lớn, tội báo nhỏ
79. Kẻ trí làm điều ác, tội báo nhỏ. Người ngu làm điều ác tội báo lớn
80. Bay bằng thân
81. Xương dài 100 do tuần
82. Biển
83. Ngưng hơi thở
84. Pháp xuất thế gian
85. Tuệ xuất thế gian nằm ở đâu
86, 87. Thức, tuệ và sanh mạng
88. Thì giờ phải lẽ rồi
89. Phật và chư tăng ai phước báu nhiều hơn
[05] SỰ CHUẨN BỊ CỦA ĐỨC VUA VỀ NHỮNG CÂU HỎI MENDAKA
90. Lễ bái, cúng dường xá lợi, kim thân Phật, cây Bồ đề... không có phước
91. Đức Phậttoàn giác không?
92. Đức Thế tôn có tâm Đại bi hay không?
93. Nghi vấn về sự bố thí Ba-La-mật
94. Bố thí hai mắt lại được thiên nhãn
95. Hoài nghi về sự thụ thai
[06] 96. Nghi về thời gian giáo pháp tồn tại
97. Đức Thế Tôn còn khổ chút ít nào không?
98. Đức Thế Tôn đã thật sự hoàn tất mọi phận sự chưa?
99. Tại sao Đức Thế Tôn không dùng "tứ thần túc" để duy trì thọ mạng
100. Chánh pháp của Đức Thế Tôn có vẻ không được hoàn hảo?
101. Tại sao có những câu hỏi mà Đức Thế Tông làm thinh không trả lời?
102. Chúng sanh sợ hãi diêm chúa?
103. Tụng kinh Paritta thật không có lợi ích!
[07] 104. Oai lực của Đức Phật thua Ma vương?
105. Vì Đức Phật thuyết pháp mà làm cho sáu mươi vị tỳ kheo hộc máu.
106. Bậc Thánh cư sĩ sao lại phải đảnh lễ, cúng dường phàm Tăng?
107. Giáo hội của Đức Tôn Sư có bị phân ly, chia rẽ không?
108. Tỳ kheo tạo nghiệp do không biết, tại sao lại không có tội?
109. Đức Thế Tônlãnh đạo, bảo quản giáo hội tỳ khưu không?
110. Tại sao Đức Thế Tôn không thu thúc lục căn?
111. Sao Đức Thế Tônlời nói khiếm nhã?
112. Cái cây có tâm lý không?
113. Bữa cơm của Cunda có vấn đề!
[08] 114. Tại sao chư Tăng không được cúng dường nhục thân Như Lai?
115. Quả đất dường như có tâm thức?
116. Đức Phật thuyết về bố thí là để nhận được lợi lộc cúng dường?
117. Tại sao Đức Thế Tôn không muốn thuyết pháp sau khi đắt đạo?
118. Ai là thầy của Đức Thế Tôn?
119. Thế nào gọi là Sa-môn?
120. Có nên hoan hỷ không khi người ta tán dương Tam Bảo?
121. Sao Đức Thế Tôn lại dùng lời ác khẩu, ác ngữ?
122. Đức Thế Tôn còn bất bình, sân hận!
123. Phải chăng Đức Thế Tôn không có tâm bi mẫn?
124. Phẩm mạo xuất gia cao siêu đến cỡ nào?
[09] 125. Đời sống Sa-môn vô tư, như nai trong rừng, sao lại xây chùa, tạo thất
126. Tai sao Đức Thế Tôn không thu thúc cái bụng?
127. Đức Phật muốn che dấu Pháp?
128. Lý do nặng nhẹ của tội nói dối!
129. Phước báu của Đức Thế Tôn không ưu thắng, tối thượng bằng đệ tử
130. Thần thông của đức Mục-kiền-liên không đương cự nổi thần lực của
131. Kiếp áp chót, tại cung trời Đảu suất, Đức Bồ-tát quán sát thế gian để
132. Rơi đi bằng phi pháp? Rơi đi bằng pháp? Cắt đứt sự rơi?
133. Tâm từ vô lượng không tiêu trừ được các sự họa hại?
134. Quả của thiện và ác nghiệp rất lạ lùng
135. Sự tà hạnh của người nữ?
[10] 136. Các vị A la hán còn sợ hãi?
137. Đức Phật dạy cắt đức sợ hãi?
138. Cái gì nơi Đức Thế Tôn là cao quý không ai sánh bằng?
139. Đức Thế Tôn là người khai sáng Đạo hay Đạo có sẵn từ ngàn xưa?
140. Đức Phật từ bỏ sự tinh tấn, lại khuyên đệ tử nên tinh tấn?
141. Tại sao có đắc quả nhanh, chậm khác nhau?
142. Về cư sĩ A-la-hán!
143. Tại sao bồ tát Loma Kassapa giết hại chúng sanh để tế lễ?
144. Tượng vương Chaddanta thì cung kính y cà sa - mà bồ tát Jotipàla lại
145. Về cái nhà không mái của người thợ gốm?
[11] 146. Tại sao có lúc Đức Phật lại xưng mình là Bà-la-môn, có khi xưng mình là
147. Tại sao không có hai Đức Phật xuất hiện một lần?
148. Không nên cho kẻ phàm tục xuất gia trong giáo hội thanh tịnh của Đức
149. Thân thọ khổ, tâm có thọ khổ?
150. Giải thêm về "tâm không động"
151. Người đã phạm "bất cộng trụ", xin tu lại, có đắc được đạo quả không?
152. Cư sĩ phá giớisa môn phá giới, hậu quả tội lỗi nặng nhẹ ra sao?
153. Nước có sanh mạng chăng?
154. Trùng câu 141.
155. Trên thế gian này cái gì không sanh?
156. Bậc A-la-hán còn phạm giới?
[12] 157. Cái gì không do nhân, nghiệp, thời tiết sanh?
158. Trùng câu 157
159. Sao không thấy tử thi của dạ xoa?
160. Tại sao Đức Thế tôn không cấm chế giới luật một lần?
161. Mặt trời có bệnh chăng?
162. Lại bệnh của mặt trời nữa!
163. Về chuyện Bồ tát Vessantara bố thí vợ con!
164. Chư Phật quá khứtu khổ hạnh không?
[13] 165. Năng lực của thiện và ác nghiệp cái nào mạnh hơn?
166. Hồi hướng phước có hiệu quả không?
167. Hồi hướng "ác" có được không?
168. Tại sao có chiêm bao?
169. Chết đúng thời và chết không đúng thời
170. Tại sao nhập Niết bàn lại có hiện tượng phi thường?
171. Chúng sanh nào có khả năng đắc đạo?
172. Niết bànxen lẫn khổ?
173. Tại sao không diễn tả Niết bàn một cách cụ thể?
174. Làm sao rõ Niết bàn?
175. Niết bàn không ở đâu cả!
[14] 176. Có ai thấy Phật không?
[15] 177. Đầu đà khổ hạnhích lợi gì?
[16] NHỮNG CÂU HỎI VỀ VÍ DỤ
178. Về con lừa
179. Về con gà
180. Về con sóc
181. Về con cọp cái
182. Về con cọp đực
183. Về con rùa nước
184. Về cái kèn
185. Về cây súng
186. Về con quạ
187. Về con khỉ
188. Về dây bầu leo
189. Về hoa sen
190. Về hạt giống
191. Cây Sàla xanh tốt
192. Về chiếc thuyền
193. Về ghe thuyền dính đá ngầm
194. Về cột buồm
195. Về người cầm lái thuyền
196. Về người làm công
197. Về biển cả
198. Về quả đất
199. Về nước
200. Về lửa
201. Về gió
202. Về núi
203. Về hư không
204. Về mặt trăng
205. Về mặt trời
206. Về trời Đế thích
207. Về chuyển luân Thánh vương
[17] 208. Về con mối
209. Về con mèo
210. Về con chuột
211. Về con bò cạp
212. Về con chồn
213. Về chó rừng
214. Về con nai
215. Về con bò
216. Về con heo
217. Về con voi
218. Về sư tử
219. Về vịt nước
220. Về chim Venàhikà mái
221. Về chim sẻ
222. Về chim cu
223. Về con rít
224. Về con dơi
225.Về con đỉa
226. Về con rắn
227. Về con trăn
228. Về nhện giăng lưới
229. Về hài nhi
230. Về rùa vàng
231. Về rừng
232. Về cây đại thọ
233. Về mưa
234. Về ngọc mani
235. Về người săn bắn
236. Về người câu cá
237. Về thợ bào gỗ
238. Về người thợ gốm
239. Về con quạ
240. Về cái dù
241. Về đám ruộng
242. Thuốc trị độc rắn
243. Về vật thực
244. Về người bắn cung
[18] III. SAU CUỘC VẤN ĐÁP
Kính cáo
Thi điếu


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 49775)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 34655)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33467)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43954)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57111)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 47590)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 39438)
Bát Thức Quy Củ Tụng - Những bài tụng khuôn mẫu giảng về tám thức tâm vương; tác giả: Huyền Trang; người toát yếu: Khuy Cơ, người dịch giảng: HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 38491)
Quyển "Vi Diệu Pháp Nhập Môn" ngoài tác dụng của bộ sách giáo Khoa Phật Học; còn là cuốn sách đầu giường của học giả nghiên cứu về Triết lý Ấn độ, cũng như Văn Học A Tỳ Ðàm...
(Xem: 52969)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 36623)
Như Lai là bậc A-la-hán, chánh đẳng chánh giác, dùng pháp thắng tri (tuệ tri: biết sát na hiện tiền) hay pháp chánh tri kiến để liễu tri sự vật, không dục hỷ...
(Xem: 32257)
Nếu có ai hỏi ngài Duy Ma Cật: “Bản thể của thế giới này là gì?” thì trước sự im lặng của ngài Duy Ma Cật mà lại được Văn Thù Sư Lợi hết sức tán thưởng là có ý nghĩa sâu xa của nó.
(Xem: 40507)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43513)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31480)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 46733)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 36227)
Sự kiện Đức Phật chấp nhận thành lập giáo hội Tỳ kheo ni, nâng vị trí người nữ đến mức quan trọng nhất, là việc làm duy nhất và chưa từng thấy trong lịch sử tôn giáo...
(Xem: 28723)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 29266)
Cách tốt nhất để mang lại sự an ổn cho bản thân là hướng về điều thiện, và quy y Tam bảo là nền tảng đầu tiên cho một cuộc sống hướng thiện.
(Xem: 31918)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28860)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33397)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29167)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 61017)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39806)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 26706)
Phật tử có nghĩa là tự nguyện theo Tam quy (ti-sarana), Ngũ giới (pañca-sila), tức là nương tựa vào Tam bảo (ti-ratana) và giữ gìn năm giới căn bản của đạo Phật.
(Xem: 29699)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37411)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40118)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 26866)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42696)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 37297)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 28316)
Sự hiện hữa của các pháp trên mặt hiện tượng của tướng đó là một sự hiện hữu giả hợp do duyên và, mặt khác tánh của chúng là Không cũng do duyên mang lại.
(Xem: 28910)
Bàn tay cầm chiếc chìa khóa vô thườngchánh niệm. Dùng hơi thở chánh niệm ta tiếp xúc với mọi sự vật, quán chiếu và thấy được tính vô thường của mọi sự vật.
(Xem: 26414)
Này các thầy! Tánh Không thì rỗng không, không vọng tưởng, không sanh, không diệt, lìa tất cả tri kiến. Vì sao? Vì tánh Không không có nơi chốn, không thuộc sắc tướng...
(Xem: 27186)
Phật dạy: Tự tính của Không là không nằm trên bình diện có không, không nằm trong khuôn khổ các vọng tưởng, không có tướng sinh, không có tướng diệt, và vượt thoát mọi tri kiến.
(Xem: 26207)
Đức Phật thấy rõ bản chất của phiền não tham, sân, si là nguồn gốc khổ đau, Ngài chế ra ba phương thuốc Giới-Định-Tuệ để chữa tâm bệnh tham, sân, si cho chúng sinh...
(Xem: 34704)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 27832)
Tôi nghĩ nhiệm vụ quan trọng nhất của bất cứ một hành giả của một tôn giáo nào là thẩm tra chính họ trong tâm hồn của chính họ và cố gắng để chuyển hóa thân thể, lời nói
(Xem: 30496)
Bụt là bậc có Nhất Thiết Trí, bản chất của Người là đại nhân từ, vì thương xót nhân gian cho nên mới xuất hiện trên cuộc đời này để mở bày đạo nghĩa, giải cứu cho con người.
(Xem: 33312)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 28585)
Khi Phật thành đạo là do đạt được Trí Tuệ hay Giác Trí Tuệ thì các pháp giải thoát được thiết lập thực hành Giác Trí Tuệ trong các thời thiền tập.
(Xem: 30095)
Khi tuệ giác nội quán của chúng ta vào trong bản chất tối hậu của thực tạiTính Không được sâu sắc và nâng cao, chúng ta sẽ phát triển một nhận thức về thực tại...
(Xem: 25498)
Thông thường mà nói Bát Nhã có ba ý nghĩa. Thứ nhất là thực tướng, tướng là tướng trạng, thực tướng chính là hình ảnh chân thực. Nghĩa thứ hai là quán chiếu Bát Nhã, cũng chính là chỗ dụng của thực tướng.
(Xem: 21862)
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ phần giới bổn như thích, Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: "Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh-Luật-Luận tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 51341)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 26748)
Tận cùng tư duy của Đạo Phật quan tâm, định luật căn bản là: chúng ta muốn hạnh phúc. Quyền căn bản của chúng tađạt được hạnh phúc.
(Xem: 28641)
Khi chúng ta nói về từ bi, thật đáng khuyến khích để lưu ý rằng bản chất tự nhiên của con người, tôi tin, là từ bihiền lành.
(Xem: 27728)
Thế Tôn, nếu có người nghe được kinh này mà có lòng tin thanh tịnhđạt được cái thấy chân thật thì nên biết người ấy đã thực hiện được công đức hiếm có vào bậc nhất.
(Xem: 24373)
Tự tánh giả danh hay tùy thuộc cũng nằm trong phạm trù Tánh không. Tự tánh giả danh được thể hiện tướng sanh diệt do tác động thời gian thì có sanh có diệt...
(Xem: 27485)
Tuệ quán là tri nhận một cách sáng suốt, vô thời gian. Vì lẽ chơn thức (tri giác nguyên sơ) là một điểm nhận thức có thật trong động tác nhận thức đầu nguồn của tri giác.
(Xem: 31972)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 30213)
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có thiện nam, thiện nữ nào muốn vì chúng sinh mà nói kinh Pháp Hoa này thời thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai... Pháp sư Thích Thiện Trí
(Xem: 27731)
“Dược Sư Lưu Ly Quang” là tên gọi của đức Phật này; “Như Lai” là một trong mười tôn hiệu của mỗi vị Phật; “Bổn Nguyện” là các lời phát nguyện của đức Phật này khi Ngài phát tâm Bồ-đề...
(Xem: 35482)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 27476)
Ngày nay, Kinh Chuyển Pháp Luân thuộc Tương Ưng Sự ThậtTương Ưng Bộ SN 56.11 trong kinh điển Pali được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật.
(Xem: 30042)
Để tìm về tính nguyên thủy ấy, lẽ tự nhiên là ta cần khảo sát cẩn trọng bản kinh được xem là lời dạy đầu tiên của Đức Phật. Đó là Kinh Như Lai Thuyết...
(Xem: 31801)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 23046)
Kinh Điềm Lành (Mangala Sutta) -- còn có tên là kinh Phước Đức hay kinh Hạnh Phúc -- là bài kinh số 5 trong Tiểu Tụng (Khuddakapātha), thuộc Tiểu Bộ (Khuddhaka Nikāya).
(Xem: 24204)
Cách mà chúng ta đang sống sẽ là một trong các nhân tố chính yếu có thể mang lại cho chúng ta sự thanh thảnđiềm tĩnh trong giây phút lâm chung.
(Xem: 23049)
Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác ngộ, nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant