Một bản thâu gọn quyển "Milinda Panha"
Bản Anh ngữ: Tỳ Kheo Pesala - Bản Việt ngữ: Cư sĩ Liễu Pháp
1.
“Bạch ngài Nāgasena, cái gì là gốc của thời gian, quá khứ,
hiện tại và tương lai?”
“Là
vô
minh. Vô minh là nhân duyên làm hành nghiệp sinh khởi; hành
nghiệp là nhân duyên làm thức sinh khởi; thức làm sinh khởi
danh sắc; danh sắc làm sinh khởi lục nhập; lục nhập làm sinh khởi xúc; xúc làm sinh khởi sanh; sanh làm sinh khởi
lão, tử, thương tiếc, ân hận, đau khổ, buồn bã và thất
vọng.”
2.
“Ngài
nói rằng sự khởi sinh đầu tiên hết của sự vật
thì không thể thấy được. Xin ngài cho một ví dụ.”
“Đức
Thế
Tôn có nói: ‘Do bởi có sáu căn và trần (cảnh) mà
xúc sinh khởi; do bởi xúc mà thọ sinh khởi; do bởi thọ mà
tham ái sinh khởi; do bởi tham ái mà hành nghiệp sinh khởi.
Và từ hành nghiệp mà sáu căn lại một lần nữa sinh khởi.’
Bây giờ liệu sự sinh khởi dây chuyền này có thể chấm
dứt được không?”
“Thưa
không.”
“Như
vậy,
thưa Đức Vua, sự sinh khởi đầu tiên của sự vật
không thể thấu hiểu được.” (*E 3.2)
3.
“Phải chăng sự sinh khởi đầu tiên hết của mọi sự vật
không thể biết được?”
“Một
phần
là vậy, phần khác thì không.”
“Vậy
thì
phần nào biết được, phần nào không biết được?”
“Với
bất
cứ nhân duyên nào đi trước kiếp này mà đối với
ta như là không có từ trước thì sự sinh khởi đầu tiên
hết không thể biết được. Nhưng với cái gì trước không
có mà nay hiện hữu và vừa mới sinh lại diệt mất thì sự
sinh khởi đầu tiên hết có thể biết được.”
4.
“Phải chăng có những pháp hữu vi được tạo tác nên?”
“Thưa
Đức
Vua, chắc chắn như vậy. Nơi nào mà có mắt và cũng
có hình sắc thì có nhãn thức; nơi nào có nhãn thức thì
có xúc; nơi nào có xúc thì có cảm thọ; nơi nào có cảm
thọ thì có tham ái; nơi có tham ái thì có thủ; nơi có thủ
thì có hữu; nơi có hũu thì có sanh, lão, tử, thương tiếc,
đau đớn, buồn bã hay thất vọng. Nhưng nơi nào không
có
mắt
và hình sắc thì không có nhãn thức, không có xúc, không
có cảm thọ, không
có
tham
ái, không có thủ, không có hữu; và nơi nào không có
hữu thì không có sanh, lão, tử, thương tiếc, đau đớn, buồn
bã hay thất vọng.”
*E
3.2: Đi tìm nguồn gốc của đời sống trong sao băng (Super
Novae) hay trong D.N.A.(cấu tử cơ bản của nhiễm sắc thể
kiểm soát sự di truyền) là đi tìm một cách vô vọng bởi
vì nguồn gốc nằm ở trong tâm. Đức Phật đã nói:
“Trong
vô
số kiếp ta lang thang trong sinh tử luân hồi,
Đi
tìm kiếm mà chẳng tìm ra kẻ xây nên căn nhà này.
Con
chính là người xây nhà! Đừng bao giờ xây nhà nữa!
Tất
cả mọi ô nhiễm phải được phá vỡ! Vô minh phải
được dẹp tan!
Tâm
ta đã đi đến Niết bàn. Sự chấm dứt tham ái đã được
thành tựu.”
_____________________________________________________________________
5.
“Có chăng những pháp hữu vi mà không được tạo tác nên?”
“Thưa
Đức
Vua, chẳng có pháp hữu vi nào như vậy, bởi vì các
pháp hữu vi được tạo tác chỉ do tiến trình của hữu.”
“Xin
cho
một ví dụ.”
“Có
phải
ngôi nhà mà Bệ Hạ ngồi đây đã được tạo tác nên
do một tiến trình của hữu?”
“Chẳng
có
một cái gì ở đây mà không có từ trước. Gỗ này là
đã ở trong rừng, đất sét này là từ đất mà ra và do công
sức của con người, đàn ông và đàn bà, ngôi nhà này mới
hiện hữu.”
“Thưa
Đức
Vua, cũng giống như vậy, chẳng có pháp hữu vi nào mà
không được tạo tác nên.”
6.
“Phải chăng thựccó có một người thông thái (vedagū)?”
(*E 3.6)
“Theo
Đức
Vua, đó là cái gì?”
“Là
một
chủ thể bên trong thân có thể thấy, nghe, nếm, ngửi,
cảm xúc và phân biệt sự vật; cũng giống như chúng ta, đang
gồi ở đây, có thể nhìn ra bên ngoài từ bất cứ cử sổ
nào theo ý muốn.”
“
Thưa Đức Vua, nếu có cái chủ thể có thể thấy, nghe, nếm,
ngửi và cảm xúc như ngài nói thì cái chủ thể đó có thể
thấy hình sắc qua lỗ tai, mủi, lưỡi... chăng?”
“Thưa
không,
bạch ngài Đại Đức.”
“
Vậy thì, thưa Đức Vua, cái chủ thể bên trong thân không
thể xử dụng bất cứ giác quan nào nó mong muốn như ngài
đã nói. Thưa Đức Vua, chính do có mắt và hình sắc mà nhãn
thức khởi sinh và tương tự như thế các nhân duyên khác
phát sinh, như là xúc, cảm thọ, tưởng, tác ý, định tâm,
tĩnh thức và chánh niệm. Mỗi thứ sinh khởi cùng lúc với
nguyên nhân của nó và ở đây chẳng có ‘kẻ chứng ngộ’
nào cả.”
(*V
3.6).
7.
“Phải chăng ý-thức sinh khởi nơi nào mà nhãn-thức sinh
khởi?”
“Đúng
vậy,
thưa Đức Vua, nơi nào có cái này thì nơi đó cũng có
cái kia.”
“Cái
nào
sinh khởi trước?”
“Nhãn-thức
trước
rồi đến ý-thức.”
“Phải
chăng
nhãn-thức ra hiệu lệnh cho ý-thức hay ngược lại?”
“
Không, chẳng có thông tin gì cả giữa hai thứ.”
“Bạch
ngài,
thế thì tại sao ý-thức lại sinh khởi nơi nào mà nhãn-thức
sinh khởi?”
_____________________________________________________________________
*E
3.6:
vedagū đã được dùng để chỉ Đức Phật như là một
‘bậc giác ngộ’.
*V3.6:
Căn
(con mắt) tiếp xúc với trần (hình sắc) cũng chưa đủ
để biết hình sắc thế nào nếu không có nhãn thức. Nhãn
thức này không phải là một chủ thể hay tự ngã; nhãn thức
không sinh khởi một mình mà có những tâm sở cùng sinh khởi
gọi là tâm sở biến hành: xúc, thọ, tưởng, tư, nhất hành,
mạng quyên, tác ý. Xúc là xúc chạm trần cảnh; thọ là cảm
giác; tưởng là nhận biết; tư là tạo tác, hành nghiệp;
nhất hành là làm cho các tâm sở được liên tục; mạng quyên
là duy trì mạng sống của một tiến trình tâm; tác ý là
khởi ý đến trần cảnh. Cho rằng thức (hay tâm) là một
chủ thể, một tự ngã độc lập là tà kiến, cần phải
tu học thêm nữa về Phật Pháp, nhất là về Vi Diệu Pháp.
_____________________________________________________________________
“Thưa
Đức Vua, tại vì có một khuynh hướng, một chỗ trống, một
thói quen và một sự liên hệ.”
“Xin
ngài
cho một ví dụ.”
“Nếu
một
người muốn ra khỏi thành với tường lũy kiên cố mà
chỉ có một cổng thành thì người đó sẽ đi ngã nào?”
“Đi
qua
cổng thành”
“Nếu
một
người khác cũng ra khỏi thành thì đi theo ngã nào?”
“Cũng
đi
qua cổng thành.”
“Nhưng
người
thứ nhất có ra hiệu lệnh cho người kia đi cùng ngã
như mình hoặc người thứ hai có bảo người đi trước là
sẽ đi cùng một ngã hay không?”
“Bạch
Đại
Đức, hai người đó chẳng nói chuyện với nhau.”
“Thì
cũng
như vậy, ý-thức khởi sinh nơi nào có nhãn-thức và
hai thứ chẳng có liên lạc với nhau.”
8.
“Bạch ngài Nāgasena, phải chăng nơi nào có ý-thức thì nơi
đó uôn luôn có xúc và thọ?”
“Đúng
vậy,
nơi nào có ý-thức thì có xúc và thọ. Và cũng có tưởng,
tác ý, tầm và tứ.”
9.
“Đặc điểm của xúc là gì?”
“Là
đụng
chạm.”
“Xin
cho
một ví dụ.”
“Như
khi
hai con trừu đực húc vào nhau, con mắt (nhãn căn) giống
như một trong hai con trừu, vật nhìn thấy được (nhãn trần)
thì giống như con trừu kia và sự húc nhau, đụng chạm giữa
hai con trừu chính là xúc.”
10.
“Cái gì là đặc điểm của cảm thọ?”
“Thưa
Đức
Vua, đó là kinh nghiệm được cảm xúc, được thích
thú.”
“Xin
cho
một ví dụ.”
“Như
một
người phục vụ cho Đức Vua và được phong chức vụ;
sau đó cảm thấy thích thú hưởng quyền lợi của chức vụ.”
11.
“Cái gì là đặc điểm của tưởng?”
“Thưa
Đức
Vua, đó là nhận biết, như nhận biết màu sắc, xanh,
vàng hay đỏ.”
“Xin
cho
một ví dụ.”
“Cũng
giống
như người thủ quỹ của Đức Vua nhận biết được
tài sản của Đức Vua khi nhìn vào màu sắc và hình dạng
của chúng.” (*E 3.11)
12.
“Cái gì là đặc điểm của tác ý?”
“Thưa
Đức
Vua, đó là đã có ý niệm và đã chuẩn bị.”
*E
3.11: Sự nhận biết có ba tầm mức - tưởng saññā, thức
viññāna và tuệ paññā – có thể so sánh như là sự nhận
biết của một đứa bé, một người đàn ông và một người
đổi tiền khi họ thấy một đồng tiền vàng. Đứa bé chỉ
thấy đó là một vật tròn và sáng chói. Người đàn ông
biết đồng tiền vàng có giá trị. Người đổi tiền thì
biết rõ hết về đồng tiền vàng.
_____________________________________________________________________
“Xin
cho
một ví dụ.”
“Như
một
người đã chuẩn bị thuốc độc, sau khi uống vào phải
chịu đau đớn, một người đã nghĩ đến ác nghiệp và thực
hiện ác nghiệp, sau đó phải chịu đau khổ trong địa ngục.”
13.
“ Đặc điểm của thức là gì?”
“Thưa
Đức
Vua, đặc điểm của thức là biết.”
“Xin
cho
một ví dụ.”
“Một
người
canh gác khu phố phải biết ai đó đang đi đến, từ
hướng nào người đó đi đến; cũng như thế, khi một người
nhìn thấy một vật, nghe một âm thanh, ngửi một mùi, nếm
một vị, cảm giác một sự đụng chạm hay có một ý kiến,
thì chính bằng thức mà người đó biết được.”
14.
“Cái gì là đặc điểm của tầm?”
“Thưa
Đức
Vua, đó là nhắm vào một mục tiêu.”
“Xin
ngài
cho một ví dụ.”
“Như
một
người thợ mộc nhắm để đặt một đòn mộng đã
được đẽo vừa vặn vào lỗ mộng của nó, nhắm vào mục
tiêu là đặc điểm của tầm.”
15.
“Cái gì là đặc điểm của tứ?”
“Là
xem
xét đi xem xét lại.” (*V3.15)
‘‘Xin
Ngài
cho một ví dụ.’’
‘‘Cũng
như
sự gõ chuông ví như là tầm, sự ngân vang của tiếng
chuông ví như là tứ.’’
16.
‘‘Phải chăng ta có thể tách rời những nhân duyên trên
bằng cách nói rằng : ‘Đây là xúc, đây là thọ, đây là
tưởng, đây là tác ý, đây là thức, đây là tầm và đây
là tứ ?’’
‘‘Không,
thưa
Đại Đế, không thể tách rời như thế được. Nếu
nồi canh được nấu với bơ, muối, gừng, bột gia vị và
tiêu thì ta không thể tách ra mùi vị từng món và nói ‘đây
là mùi vị của bơ, đây là mùi vị của muối...’’. Tuy
nhiên, mùi vị riêng của mỗi thứ vẫn có trong canh bằng
đặc điểm của nó.’’
17.
‘‘Rồi ngài Đại Đức nói : ‘‘Thưa Đức Vua, phải chăng
muối có thể nhận biết bằng con mắt ?’’
‘‘Bạch
ngài
đúng vậy’’
‘‘Thưa
Đức
Vua, xin ngài hãy cẩn thận về điều ngài nói.’’
‘‘Thế
thì
muối có thể được nhận biết bằng lưỡi.’’
‘‘Vâng,
đúng
vậy.’’
‘‘Tuy
nhiên,
bạch Đại Đức, phải chăng các loại muối đều có
thể nhận biết chỉ bằng lưỡi ?’’
‘‘Vâng,
tất
cả các loại.’’
‘‘Thế
thì
tại sao muối lại được chuyên chở từng khối ?’’
‘‘Không
thể
chở riêng chất muối được. Thí dụ, muối cũng có
trọng khối, nhưng không thể cân chất muối được, người
ta chỉ có thể cân trọng khối của muối.’’
‘‘Ngài
quả
thực tài tình trong lý luận.’’