Một bản thâu gọn quyển "Milinda Panha"
Bản Anh ngữ: Tỳ Kheo Pesala - Bản Việt ngữ: Cư sĩ Liễu Pháp
1.
“Bạch Đại Đức, ngài và các bậc thầy của ngài đã từng
thấy Đức Phật không?”
“Thưa
Đức
Vua, không.”
“Vậy
thì,
bạch ngài Nāgasena, không có Đức Phật!”
“Nhưng
Đức
Vua và Vua Cha đã từng thấy sông Ūha trong Hi Mã lạp
Sơn chưa?”
“Bạch
Đại
Đức, chưa thấy.”
“Vậy
thì
vì chưa thấy mà nói không có sông Ūha, nói thế có đúng
chăng?” (*E 5.1)
“Bạch
ngài
Nāgasena, ngài quả thật tài tình trong việc đối đáp.”
2.
“Phải chăng Đức Phật không có gì so sánh được?”
“Đúng
vậy.”
“Nhưng
làm
thế nào ngài biết được nếu ngài chưa bao giờ thấy
Đức Phật?”
“Giống
như
những ai chưa bao giờ thấy đại dương có thể biết
được đại dương vĩ đại như thế nào vì năm dòng sông
lớn chảy vào đại dương mà mức nước đại dương vẫn
không dâng lên; cũng như vậy, bần tăng biết không gì so sánh
được với Đức Phật khi nghĩ đến các vị thầy cao cả
mình đã biết mà họ chỉ là đệ tử của Đức Phật.”
3.
“Phải chăng những người khác có thể biết không gì so
sánh được với Đức Phật?”
“Đương
nhiên
họ có thể biết được.”
“Bằng
cách
gì mà họ biết được?”
“Thuở
xưa
lâu lắm, có bậc thầy viết lách tên là Tissa Thera; bằng
cách gì mà người ta biết về ông ta?” (*E 5.3)
“Bằng
công
trình viết lách của ông ta.”
“Thì
cũng
như vậy, thưa Đức Vua, người nào thấy giáo pháp mà
Đức Phật đã giảng dạy thì có thể biết Ngài là bậc
tối thắng, không có gì so sánh được với Ngài.”
4.
“Bạch ngài Nāgasena, ngài đã đạt được chân đế chưa?”
“Thưa
Đức
Vua, chúng tôi là đệ tử của Đức Phật, phải tuân
theo những giới luật Đức Phật đã dạy.” (*E 5.4)
5.
“Có thể có sự tái sanh nơi mà không có sự di chuyển thân
tâm hay không?”
“Vâng,
có
thể được, giống như một người mồi một ngọn đèn
dầu từ một ngọn đèn khác
*E
5.1: Ūha là ngọn của sông Ganges
*E
5.3:
Tissa Thera có thể chỉ ngài Moggalliputta Tissa Thera ( Mục-kiền-liên
Tử-đế tu), người triệu tập đại hội Kết Tập Tam Tạng
lần thứ ba và là tác giả của tác phẩm Kathāvatthu (Luận
sử), ‘Points of Controversy’(Những điểm tranh luận).
*E
5.4:
Một giới luật cho các tỳ kheo là không được tiết
lộ chứng ngộ mình đạt được.
________________________________________________________________________
mà
chẳng
có gì di chuyển cả từ ngọn đèn này qua ngọn đèn
kia; cũng giống như một người học trò có thể học thuộc
lòng một bài thơ từ người thầy mà bài thơ chẳng di chuyển
từ người thầy qua người trò.”
6.
Và vua Milinda lại hỏi: “Có thực chăng một cái gì như là
kẻ thông thái (vedagū)?”
“Chẳng
có
một người như vậy nếu nói trong nghĩa chân đế.” (*E
5.6; *V5.6)
7.
“Có chăng một chúng sinh nào di chuyển từ một thân thể
này qua một thân thể khác?”
“Không
có
như vậy.”
“Nếu
quả
thực như vậy thì phải chăng có thể trốn thoát khỏi
quả của những ác nghiệp?”
“Có
thể
trốn thoát nếu không bị tái sanh, nhưng không thể trốn
thoát nếu sẽ phải tái sanh.
Cái
tiến
trình thân tâm này làm những việc trong sạch hoặc xấu
xa, và bởi do nghiệp mà một thân tâm khác tái sanh. Vì thế
thân tâm này không thoát khỏi quả của hành động xấu xa.”
“Xin
ngài
cho một ví dụ.”
“Nếu
một
tên trộm lấy xoài của người khác, có xứng đáng bị
trừng phạt không?”
“Đương
nhiên
là đáng tội.”
“Nhưng
mà
những trái xoài trên cây mà tên này lấy trộm không phải
là xoài mà người chủ đã trồng trước đây; tại sao tên
trộm lại nên bị phạt tội?”
“Tại
vì
quả xoài lấy trộm là do quả xoài trồng ra cây mà có.”
“Thưa
Đức
Vua, cũng giống như tiến trình thân tâm này làm những
việc trong sạch hay xấu xa; và bởi do nghiệp đó mà một
tiến trình thân tâm khác tái sanh. Vì thế thân tâm này không
thoát khỏi quả của hành động xấu xa.”
8.
“Khi các hành nghiệp đã được làm bởi một tiến trình
thân tâm thì các hành nghiệp này được giữ lại ở đâu?”
“Những
hành
nghiệp theo ta như cái bóng của mình, không bao giờ rời
xa. Nhưng ta không thể chỉ vào hành nghiệp mà nói ‘chúng
ở đây hoặc ở đó’, cũng giống như trái của cây không
thể được chỉ rõ là ở đâu trước khi cây sinh ra trái.”
9.
“Phải chăng người sắp tái sanh biết được là mình sắp
tái sanh?”
“Vâng,
người
đó có thể biết được, giống như nhà nông gieo hạt
xuống đất và thấy mưa nắng thuận hòa thì có thể biết
được mùa màng sẽ được sản xuất.”
10.
“Có thực chăng một người như Đức Phật?”
“Vâng
có
thực.”
“Phải
chăng
Ngài có thể được chỉ rõ là ở đây hay ở đó?”
“Đức
Thế
Tôn đã qua đời, chẳng có gì còn lại để tạo nên
một người khác. Ngài không được tìm thấy ở đâu cả,
như một ngọn lửa đã tắt thì không được tìm thấy nữa.
Tuy nhiên, sự hiện hữu của Đức Phật có thể biết được
qua giáo pháp Ngài đã giảng dạy.” (*E 5.10)
*E 5.10: Điều này cũng đúng với sự hiện hữu của nhiều vị Phật trong tương lai.
*V 5.6: Câu này đã được hỏi ở Chương 3, câu hỏi số 6; ở đây câu trả lời dùng tục đế và chân đế để giải thích. Tục đế (sammuti-sacca, conventional truth) hay là chân lý qui ước, là thực tại theo qui ước ở đời thường, của thế gian; chân đế (paramattha-sacca, ultimate truth) hay chân lý rốt ráo, là thực tại trừu tượng biết được nhờ trạch pháp và thực hành Phật Pháp. Vì thói quen suy nghĩ theo tục đế, người đời lầm tưởng có một chủ thể, một tự ngã điều khiển mọi sự; đúng ra theo chân đế phải hiểu đó chỉ là ngũ uẩn, một dòng thân tâm biến chuyển, thay đổi không ngừng…Khái niệm về Vô Ngã, Tánh Không rất khó lãnh hội, nhất là khi chúng ta không có sự tu học Phật Pháp đầy đủ trong đó việc học hỏi Vi Diệu Pháp cũng như tìm hiểu Tâm Kinh rất là quan trọng. Trên phương diện chân đế, bốn đề tài được đề cập trong Vi Diệu Pháp là: Tâm Vương, Tâm Sở, Sắc và Niết Bàn. Nghiên cứu Vi Diệu Pháp không những để học hiểu về chức năng, vận hành của thân, tâm, hiểu biết về chính mình mà còn giúp chúng ta tu tập…Nghiên cứu Tâm Kinh để hiểu về Tánh Không, Vô Ngã, để mong thấy được mọi sự, mọi vật đều không có tự tánh, mọi hiện tượng đều là do nhân duyên mà không tự có…Tuy nhiên trạch pháp và suy tư chỉ sẽ mang lại văn tuệ và tư tuệ, để tâm được thanh tịnh và sự phát triển trí tuệ được rốt ráo (tu tuệ) thì phải tu tập theo con đường Giới, Định, Huệ trong đó sự thực tập thiền quán rất là thiết yếu …(V: Chú thích của dịch giả bản tiếng Việt).