Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 5

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 14054)
Phần 5

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


41. Hai con quỷ tranh vặt

Thuở xưa có hai con quỷ lượm được một cái rương, một cây gậy, một đôi guốc, con nào cũng đều cho là riêng mình được, tranh chấp lẫn nhau mãi không thôi.

Bây giờ có người chạy đến thấy thế hỏi chúng nó

- Ba món nầy hữu dụng như thế nào, mà chúng bây giành nhau như vậy? 

Hai con quỷ trả lời:

- Cái rương có thể hiện ra các thức ăn, áo mặc, mùng mền và tất cả tài sản. Cái gậy anh chỉ cầm nơi tay thì tất cả thù địch đều quy phục nơi anh, không dám chống cự. Ðôi guốc cây nầy anh mang nó thì có thể đằng vân đến phương xa trong nháy mắt.

Người ấy nghe xong, bảo hai con quỷ:

- Chúng bây đi nơi khác độ vài phúc rồi trở về, ta sẽ phân xử công bình cho.

Hai con quỷ tin lời người kia chạy nơi khác. Người kia vội vã ôm rương, cầm gậy, mang guốc bay lên hư không, rồi từ trên hư không, nói với chúng nó:

- Hiện tại chúng bây đã được sự công bình, vì không còn chi để tranh dành nhau nữa.

Hai con quỷ nghe xong, phi thường khổ não, đều bó tay chịu mất của, không biết làm cách nào nữa được.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Sự bố thí cũng như cái rương báu, tất cả tư tài hưởng dụng ở cõi nhân, thiên đều từ trong nhơn lành bố thí mà có. Thiền định ví như cây gậy báu, người tu định có thể hàng phục được oán tặc, phiền não, tham, sân, si. Trì giới tỉ như đôi guốc báu, giới luật thanh tịnh được sanh thiên, hoặc chứng Niết bàn tịch tịnh. Hai con quỷ cũng như các tà ma ngoại đạo, bọn ngoại đạo ở trong ngoại đạo, bọn ngoại đạo ở trong pháp hữu lậu tìm cầu quả báo an vui, chung kết đều không thể toại nguyện. Chỉ có nhất tâm, nhất ý tu các hạnh lành như: bố thí, trì giới, thiền định v.v... Vì chỉ có những hạnh ấy mới có thể thoát ly khổ não chứng đạo Niết Bản an vui.

42. Che da lạc đà

Thuở xưa có người thương gia cùng hai đệ tự đắc con lạc đà ra xứ ngoài tìm kế sanh sống, đem theo một ít hàng lụa quý giá vô song và mùng mền tốt đẹp tột bực; tất cả hàng hóa đều chở trên lưng con lạc đà. Ði được nửa đường con lạc đà chết, người thương gia bèn lột da lạc đà để lại, rồi sữa soạn đi trước, bảo hai người đệ tử ở lại xem chừng. Khi chia tay, y căn dặn hai người đệ tử:

- Chúng con hãy chăm nom chút vật nầy cho kỹ lưỡng, hãy căng da con lạc đà ra đừng để nó ẩm ướt.

Sau khi người thương gia đi rồi, không bao lâu thì trời mưa rất lớn, hai người đệ tử sợ da lạc đà bị ướt, bèn đem hàng lụa quý giá và mùng mền tốt đẹp đậy lên. Nhưng hàng quý giá đem so với giá tiền da lạc đà, đắt hơn gấp trăm ngàn lần ấy đều bị hư mục.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người học Phật pháp, không chịu nghiêm trì tịnh giới, tu định, khai huệ mà chỉ một bề lo tu bồi công đức thí tài như: xây tháp, tạo chùa, cúng thí cho chung tăng v.v... Hành động như thế chỉ là bỏ gốc theo ngọn, không thể thoát ly sanh tử chứng quả Niết bàn.

Vì lẽ đó, Phật tử trước phải lo tinh nghiêm hộ trì giới luật, rồi sau mới tu tài thí và các hạnh lành, như hai người đệ tử của gả thương gia, phải trước lo giữ gìn những hàng hóa quý báu, rồi sau hãy gìn giữ da con lạc đà, như thế mới là hợp lẽ.

43. Mài đá

Thuở xưa có một người mỗi ngày chuyên tâm mài một viên đá lớn, trải qua nhiều năm trở thành viên đá nhỏ, kết quả chỉ có thể đem làm đồ chơi, không dùng được việc gì cả. Người kia làm một việc phí nhiều thì giờ và lao lực mà kết quả không có chi đáng kể.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Nhiều người tinh cần lao khổ tu học phải nên chí cầu đạo quả cao siêu, trái lại, chỉ cầu chút danh lợi, chổ dụng công rất nhiều mà thu hoạch rất ít, hoặc giả rủi ro lầm lạc, trở lại tăng thêm tội lỗi không cùng.

44. Ăn bánh

Thuở xưa có một người đương khi đói bụng, đến tiệm bánh mua bánh ăn, ăn một loạt sáu cái mà vẫn không no; mua thêm cái thứ bảy, vừa ăn được nửa cái thì no. Lúc bấy giờ y rất hối hận vừa vả miệng vừa nói rằng:

- Sao ta ngu ngốc không biết cần kiệm thế! Như quả sớm biết chỉ ăn nửa cái sau no, thì nên mua nổi nửa cái bánh sau; mua ăn làm chi sáu cái bánh trước cho hao phí thế?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu hành phải cần khổ tu học trải qua nhiều thời gian mới có ngày được quán thông chứng ngộ. Có một ít người không bền chí cần tu, chỉ ước mong mau chứng ngộ, cùng với người ăn báng kia để là hàng quan niệm sai lầm đáng thương.

45. Giữ của 

Thuở xưa có một người có việc cần đến phương xa, khi sắp đi, kêu người nô bộc dặn:

- Con ở nhà phải coi chừng cửa nẻo cho cẩn thậnxem lại giây buộc con lừa có chắc chắn không, đừng để nó sút giây chạy mất.

Sau khi người chủ đi rồi, ngày nọ, xóm gần có đờn ca xướng hát rất vui tai. Người nô bộc biết có đám hát vui như thế, trong lòng rộn rực không yên, muốn đi xem hát. Bây giờ bèn gỡ cửa buộc lên dưng lừa, dắt lừa đi xem hát.

Sau khi người nô bộc đi rồi, kẻ trộm vào nhà vơ vét hết đồ đạc, tiền của, không còn một món.

Khi người chủ trở về thấy trong nhà đồ đạc, tiền của bay đi đằng nào sạch trơn, rất lấy làm quái lạ, liền tra gạn người nô bọc rằng:

- Tại sao có việc lạ đời như thế?

Người bô bộc trả lời:

- Ông chủ bảo tôi giữ của, xem chừng giây buộc lừa và con lừa, bây giờ ba món ấy đều còn đủ, không sót một vật nào. Ngoài ra tất cả tôi đều không biết. 

Người chủ nghe nói thế tức giận vô cùng, nổi cơn thịnh nộ trách mắng người nô bọc rằng:

- Ngươi là đồ ngu ngốc, bảo ngươi giữ của, chính là vì giữ những tài vật trong nhà, bây giờ tài vật đã mất hết, còn lại những cánh cửa dùng vào việ gì?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ðức Như Lai dạy bảo chúng ta phải luôn luôn thâu nhiếp tâm niệm, giữ gìn sáu căn môn, đừng để giặc sáu trần xâm nhập. Có một ít người không chịu nghe lời Phật dạy, trở lại tham cầu danh lợi, mơ tưởng ăn ngon mặc đẹp, của nhiều, giữ chắc con lừa vô minh và sợi dây tham ái, mở rộng cửa lớn sáu căn; kết quả bị bọn trộm cướp sáu trần phiền não xâm nhập; tất cả tài bảo công đức, đạo phẩm đều mất, hằng trôi lăn trong biển sanh tử nghèo cùng.

46. Ăn trộm trâu

Thuở xưa có một người cùng làng, ăn trộm một con trâu, đem giết ăn thịt. Người mất trâu đi tìm đến làng ấy, thấy bọn họ mới hỏi rằng:

- Trâu ta có trong làng người không?

Bọn ăn trộm trâu trả lời:

- Chúng ta không có làng.

Trong làng của các người có một cái ao, các ngươi ở bên bờ ao giết trâu ta ăn thịt phải không?

- Chúng ta không có ao.

- Bên ao có một bụi cây phải không?

- Cũng không có bụi cây.

- Các ngươi ăn trộm trâu ở phía đông phải không?

- Không có phía đông.

- Các ngươi ăn trộm trâu vào lúc chính ngọ phải không?

- Không có chính ngọ.

- Cứ theo lời ngươi nói: Không có làng, không có ao, không có cây, thoi cho được đi. Không lẻ trong vủ trụ không có phương đông, không có chính ngọ? Do đấy ta biết chắc lời các ngươi đều là gian dối không thể tin. Trâu của ta nhất định là các ngươi bắt trộm ăn thịt rồi, không còn chối cải gì nữa.

Bọn dân làng ấy không còn đường chối cải đành phải cúi đầu nhận tội ăn trộm trâu.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu hành theo pháp của Phật mà đi phá giới phạm trai, thường thường che giấu tội ác, không chịu phát lổi sám hối, cải dữ làm lành, trở lại luôn luôn mượn đủ lý lẻ, bào chữa thuyết của mình, nhưng kết quả không thể nào che dấu nổi tội ác dã tạo phải chịu đủ khổ não đau buồn. Chỉ có những ai mạnh mẽ thừa nhận tội lỗi của mình đã trót tạo, khẩn thiết phát lời sám hối tội khiên, mới có thể bước lên đường giải thoát của chủ Phật.

47. Giả tiếng oan ương

Thuở xưa có một quốc gia đến ngày lễ khánh tiết các hàng phụ nữ dùng thứ hoa quý đẹp tên là ưu-bát-la giắt trên đầu, làm món đồ trang điểm tuyệt diệu.

Bây giớ có một người đàn ông nghèo thương vợ vô cùng; ngày lễ khánh tiết gần đến, các phụ nữ đều đã dự bị thứ hoa đẹp ấy để trang điểm, còn vợ y không có. Chị vợ biết chắc chắn mười phần mất thể diện, than với chồng rằng:

- Anh làm thế nào có hoa ưu-bát cho em trang điểm, em mới mãi mãi làm vợ anh, nếu không em xin ly dị.

Anh chồng nghe thế hoảng hốt lo sợ vô cùng, nhưng anh có tài giả tiếng chim oan uông, giống như hệt. Bây giờ mới nghĩ rằng: "Trong ao vua có rất nhiều hoa ưu-bát, ta tìm cách ăn trộm một ít cánh giả sử rủi ro người giữ ao biết được thì ta giả kêu tiếng chim oan ương.

Nghĩ thế rồi anh ta đi đến ao vua trộm hoa. Ðương khi thò tay bẻ, làm mặt nước trao động rung rinh, người giữ ao hay được hỏi rằng:

- Ai trong ao đó?

Anh ta kinh hoảng bối rối quên giả kêu tiếng chim oan ương, bèn vụt miệng nói:

- Ta là chim oan ương,

Người giữ ao nghe tiếng biết tiếng người bèn đến ao bắt anh giải đến vua trị tội.

Trong khi đi đường anh ta giả kêu tiếng oan-ương giọng in không khác một tí. Người giữ ao cười nhạt nói rằng:

- Hồi nảy không giả kêu, bây giờ mới giả kêu chẳng là vô ích?

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phàm muốn làm việc chi phải làm ngay cho kịp thời, không nên chuyện đang làm ngày nay mà cứ dần dà để đến ngày mai ngày mót; đến khi thời cơ thuận tiện qua rồi, hối hả làm cũng không kịp. Có một số ít người trọn đời làm ác, không bao giờ biết tự xét lại mình, đến khi sắp chết mới tỉnh ngộ ăn năn làm lành , lánh dữ, nhưng than ôi, có kịp đâu nào! Ðành phải tùy thời nghiệp ác báo.

48. Chó và cây

Thuở xưa có một con chó ngủ dưới gốc cây, thình lình có một trận gió thổi đến, cành cây gãy rớt trên lưng. Nó hoảng kinh chạy lại một chỗ trống dừng lại nghĩ, mắt vẫn nhắm, không thấy nhánh cây do đây gẫy đập vào lưng, cũng không trở lại xem bụi cây nọ. Ðến chiều nó vẫn còn ở tại đó nghỉ ngơi. Nhưng một lúc, sau nó mỡ mắt ra ngó tứ phía, thấy xa xa có một trận gió thổi qua các hàng cây, làm cho nhánh lá không ngưng chuyển động. Nó tự nói một mình: "Cây gọi ta trở về chỗ củ".

Thế rồi nó bon bon chại về dưới gốc cây xưa.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu học Phật pháp, chí nguyện phải kiên quyết không dời đổi, không nên vì sư trưởng la rầy quở trách, liền muốn bỏ đi. Trong thời gian lìa thầy cách bạn gặp nhiều nghịch cảnh khổ tâm, rồi ăn năn muốn trở về thân cận với sư trưởng.

Ði đi lại lại luống phí thời gian, thật là hành động sai lầm đáng thương xót.

49. Vị tiên lầm lộn

Thuở xưa có hai đứa nhỏ chơi tại bờ sông, chúng nó vớt được một sợi lông trên mặt nước. Bây giờ chúng nó mới tranh luận: Một đứa nói râu của Tiên, một đứa nói lông cọp, mỗi đứa đều có lý lẽ của mình là đúng hơn, mỗi đứa đều có do xác đáng, không đứa nào chịu nhường.

Bây giờ có một vị tiên từ bờ sông đi lại, chúng nó bèn đến thỉnh cầu phán đoán dùm. Vị tiên không trả lời ngay câu hỏi của chúng, mà thò tay trong đãy mình lấy ra một nắm hột vừng và gạo, bỏ vào miệng nhai ngấu một hồi, nhổ ra trên bàn tay trắng nõn, đưa cho chúng nó xem và nói:

- Nầy các em, vật gì trong tay ta thật giống phân con chim sẽ.

Hai đứa nó chẳng hiểu gì.

Vị tiên đáp không đúng lời chúng nó hỏi.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có người thuyết pháp ưa nói lý suông, viễn vong mơ hồ không rõ rệt, còn chánh lý thì không chịu thuyết trình, đối với người đã không lợi ích, mà tự mình chỉ luống nhọc tinh thần. Tình trạng tổn mình hại người ấy cùng với vị tiên đáp không trúng đề, đều là chuyện đáng chê cười cả.

50. Sửa lưng gù

Thuở xưa có một ngùi lưng gù, mời lương y điều trị. Lương y bèn dùng một ít sữa thoa trên lưng, rồi đè người kia ở giữa hai tấm ván, để nằm trên thềm nhà như người thương. Người ấy đau đớn không thể tưởng tượng và hai tròng con mắt đều lọt ra ngoài, rốt cuộc lưng gù vẫn không trị được.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có người muốn tu phước lành, làm việc bố thí, lại dùng những thủ đoạn phi pháp gian tham, tranh đoạt một cách khéo léo, tranh thủ tiền tài không chính đáng, đem ra thọ dùng: Xây tháp, cất chùa, bố thí, cúng Tăng và lên tượng Phật. Kẻ ấy cũng như vị lương y đem hai tấm ván ép lưng gù, mong chữa trị cho ngay thẳng và làm thế cũng chỉ tạo thêm nghiệp ác trầm luân, tăng gia khổ não, không thể viên thành công đức bố thí phần nào.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15547)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13746)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13139)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13569)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12488)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12090)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12896)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12987)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13216)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21337)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143654)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15674)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81281)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19580)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20211)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19238)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15145)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13027)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13132)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48970)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14760)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18585)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16382)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19362)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28036)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22155)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23297)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64775)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33194)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40167)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27315)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74886)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36120)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48980)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31014)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33923)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58816)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46255)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43807)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43217)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45915)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48017)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34615)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43909)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52921)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40446)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43469)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31439)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28683)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31877)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28797)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33348)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29114)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60968)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39723)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29644)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37351)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26826)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42636)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant