Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 8

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13459)
Phần 8

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


71. Ðui mắt 

Thuở xưa co một người đàn ông cưới hai người vợ, ba vợ chồng nằm chung một giường. Nhưng thường khi anh chồng cảm thấy muốn gần gũi hai chị vợ hai bên thật khó khăn: Hễ anh gần gũi chị nầy thì chị kia nổi ghen đùng đùng không chịu được, do đấy anh khổ não vô cùng. Sau đó anh quyết định: Anh nằm chặn giữa hai người vợ hai bên, quyết định nằm giữa mãi không xoay qua bên nào.

Một hôm trời mưa, nhà thì dột nát, nước và bùn văng túa xua, lọt vào hai con mắt của anh. Anh vẫn giữ vững quyết định không thay đổi, không chịu nghiêng đầu qua một bên để tránh. Anh cứ nằm yên không xoay trở bên nào cả, lại hy vọng hai chị vợ hai bên che chở cho. Kết quả bất hạnh thay, anh đui cả hai mắt!

** Chuyện nầy tỉ dụ: Có người thân cận với bạn tà, bắt chước làm việc phi pháp. Phải bị sa đọa vào chốn tam đồ, không thể tự cứu. Thường thường do nơi bạn tà, pháp ác, mà tán mất con mắt trí huệ.
 
 

72. Sưng môi 

Thuở xưa có một người cùng với vợ đi về nhà nhạc phụ, nhằm ngay người nhà đang giã gạo. Khi vợ anh vào ra mắt cha mẹ nàng, anh bèn lén ăn cắp một bốc gạo lớn bỏ trong miệng, liền khi thấy chị vợ ra tìm anh để nói chuyện cho vui. Miệng anh đầy những gạo, không thể trả lời, anh lại sợ vợ biết. Xấu hổ quá! Anh ngậm cứng miệng lại không nói một lời. Chị vợ lấy làm quái lạ: Tại sao anh không nói? Chị thắc mắc muốn hiểu lý do, bèn dùng tay rờ hai bên má của chồng chị, nhận thấy miệng anh sưng đội lên. Chị bèn đến thưa với cha chị:

- Thưa cha, chồng con vừa đến nhà, đột nhiên phát sanh một chứng bệnh sưng môi, không thể nói được.

Cha chị nghe thế vội vã đi thỉnh một vị lương y. Vị lương y đến xem và nói:

- Bệnh nầy nặng lắm, phải mổ mới có thể trị lành.

Bây giờ vị lương y cầm dao mổ trên má, gạo ngậm trong miệng đổ ra ngoài. Sự thế như vậy ai cũng đều biết.

** Chuyện nầy tỉ dụ: người có lỗi cần phải nhìn nhận để cải đổi, mới có thể giúp đở người cải tà, qui chánh. Nếu sau khi phạm giới, làm ác, mà cứ che giấu không chịu ra, không chịu phát lời sám hối, thì tội kết mỗi ngày nặng thêm, quyết phải đọa lạc. Ðến khi mọi người xét thấy, chỉ bày ra, ăn năn không kịp. Huống chi vô luận sự bí mậttrong đời, rồi cũng có ngày bại lộ. Cách ngôn có câu: "Nếu muốn người không biết trừ khi phi mình chớ làm". Chúng ta dại gì sợ chút xấu hổ, mà gây thành trò cười cho kẻ bàng quan.
 
 

73. Ngựa đen đuôi trắng

Thuở xưa có một người cưỡi con ngựa ô dẩn đội binh đi truy tầm bọn ăn trộm. Nhưng anh rất nhát gan, không dám tiến tới trước để chiến đấu. Anh nghĩ ra một biện pháp rất hay: Lấy máu thoa lên mặt rồi nằm trong đống tử thi giả đồ chết. Con ngựa của anh bị người trộm dắt đi. Cuộc đấu chiến kết thúc trước khi anh trở về nhà, anh bèn chặt một cái đuôi của con ngựa chiến thắng đã chết đem về. Thấy anh về người nhà hỏi:

- Sao anh không cưỡi ngựa về?

Anh đáp: 

- Ngựa tôi đã bị tử trận. Nay các ngươi xem! Tôi có mang đuôi nó về làm kỹ niệm.

Người nhà nói:

- Ngựa của anh da đen, tại sao cái đuôi lại biến thành trắng?

Anh biết sự giả dối của mình bị đưa ra ánh sáng, một mực làm thinh không nói một lời.

** Chuyện nầy tỉ dụ: dối gạt người sẽ có ngày bị bại lộ. Có một số người trong tâm thường nghĩ những hành động hung ác, mà ngoài mặt đối hiện tướng hiền lành; mục đích của bọn họ dối người để khoe khoang trí mưu của mình; sự thật bao giờ cũng thắng hơn tài hùng biện. Chung qui sự giả dối không sao khỏi bị bại lộ hoàn toàn.
 
 

74. Mang bồn tắm 

Thuở xưa có một ông vua quyết định ban hành một thứ pháp luật: bắt buộc phái Bà La Môn phải tắm rửa cho thân thể được sạch sẽ, chẳng vậy thì sẽ bị phạt làm công việc khổ cực nặng nề. Sau khi pháp luật ấy được chế định, bọn Bà La Môn đi đâu cũng mang bồn tắm theo, khiến cho mọi người thấy thế, tưởng họ là năng tắm rửa luôn. Giả như có người đổ vào bồn tắm của họ một chút nước, thì bọn họ đến chổ vắng người lén đổ đi. Sỡ dĩ bọn họ làm như vậy là vì bọn họ muốn mờ dối vua để tránh khỏi làm công việc cực nhọc, kỳ thật thân thể của họ không nhờ mang bồn tắm theo mình luôn mà được sạch sẽ.

** Chuyện nầy tỉ dụ: nếu chỉ có phô trương bề ngoài mà không có sự thật, kết quả tự dối mình, dối người, không còn một chút tốt đẹp. Tăng chúng cạo đầu xuất gia ở trong Phật pháp, nhưng quả chỉ có hình tướng bên ngoài, trong không có thật đức; giới, định, huệ không tu, thì cũng bọn Bà La Môn mang bồn tắm trên đây không khác.
 
 

75. Giết lạc đà

Thuở xưa có một người nuôi một con lạc đà; ngày nọ, anh đổ lúa trong ghè cho nó ăn, sau khi nó đút đầu vào trong ghe lúa, tuy được ăn lúa no nê, nhưng không thể rút đầu ra được. Lúc ấy con lạc đà hoảng sợ phi thường. Anh cũng rất buồn khổ! Có một cụ già thấy thế nói rằng: 

- Thôi anh! Ðừng buồn nữa, tôi có một phương pháp khiến nó rút được đầu ra, nhưng cần yếu là anh phải nghe lời tôi dặn.

Anh hỏi:

- Thưa cụ phương pháp chi thế?

Cụ già trả lời:

- Người hãy nổ lực chém đầu con lạc đà, chẳng phải là rút đầu con lạc đà ra một cách dễ dàng ư.

Nghe xong, anh y lời cụ già chỉ bảo, quả nhiên đầu con lạc đà bị chặt ra, đồng thời vì con lạc đà dãy dụa mà cái ghè đựng lúa cũng bể luôn. Kết quả đầu lạc đà tuy rút ra được, nhưng nó đã chết rồi lại thêm bể mất một cái ghè nửa, anh bị thiệt hại nặng nề.

** Chuyện nầy tỉ dụ: người tu Phật pháp chí cầu đạo bồ đề, cần phải hộ trì tịnh giới, đâu nên đắm mê theo miếng mồi ngủ dục tanh hôi mà huỷ phá tịnh giới; đến đỗi bẳn thế của tịnh giới cùng đạo quả tam thừa cả hai đều mất, chỉ còn tội chướng đọa lạc tổn hao!
 
 

76. Nông phu mơ tưởng công chúa

Thuở xưa có một người nông phu trai trẻ đến độ thành dạo chơi, tình cờ thấy nàng công chúa rất đẹp, có thể nói là bậc tuyệt thế giai nhân. Sau khi trở về, anh đêm ngày mơ tưởng, nghỉ không ra biện pháp gì có thể cùng nàng trò chuyện. Ngày qua ngày, mặt mũi anh trở nên bơ phờ, thân thể tiều tuỵ, đau tương tư nằm mãi trên giường bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng. Cha mẹ và bạn hữu của anh lo sợ vô cùng, hỏi:

- Vì đâu anh phát chứng bệnh hiểm nghèo như thế? 

Anh trả lời

Hôm nọ tôi gặp một nàng công chúa xinh đẹp lạ thường, rất muốn cùng nàng trò chuyện, nhưng không được toại lòng, do đó ngày đêm tôi mãi tưởng nhớ, lo buôn mà thành bệnh. Nếu tôi không thể cùng nàng gặp gỡ chuyện trò thì tôi không sống được. 

Bạn hữu thân thích an ủi anh rằng:

- Chúng tôi tìm hộ anh một phương pháp, khiến anh được cùng công chúa luận đàm, anh hãy an tâm vui vẻ chớ có buồn rầu làm chi.

Nghe nói anh ta mừng rỡ bệnh cũng bớt lần. Qua hai ngày sau anh được lành hẳn. Bây giờ bạn hữu, bà con thân thích mới nói dối với anh rằng:

- Chúng tôi đã thay thế anh nghĩ ra phương pháp ấy, nhưng hiện tại công chúa chưa trả lời. Sau khi anh nghe thế cao hứng cười to nói một mình rằng:

- Nàng chắc chắn trả lời không mau thì chậm, ta gọi có lẽ nàng đến ngay.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Trên đời nầy có rất nhiều người ngu, không biết rõ sự tuần hoàn cho tuổi xuân, hạ, thu, đông ra sao cả; thời tiết biến thiên cũng chẳng hiểu tí gì. Nhằm thởi gian không thích hợp để gieo giống, lại tự ý gieo giống xuống đất phì nhiêu, hy vọng gặt được lúa, nhưng kết quả hoàn toàn thất bại nặng nề. Người đời và ngoại đạo tu theo hạnh không chơn chánh, mà mong cầu quả giác ngộ hoàn toàn; hoặc giả chỉ tu chút ít phước huệ, liền tự cho là đầy đủ có thể chứng bồ đề. Số người có quan niệm như thế cùng với người nông phu tưởng nhớ công chúa đều là hạng sai lầm đáng thương.
 
 

77. Tìm sữa 

Thuở xưa có những người ở tại biên thùy, chưa hề biết con lừa ra sao cả, dù có gặp tận mặt cũng không nhận ra. Nghe người ta đồn sữa lừa ngon tuyệt, nhưng bọn họ không ai biết lừa, cũng không biết phương pháp nào để tìm cho ra sữa. Sau đó bọn họ chia nhau đi tìm, kết quả tìm được một con lừa đực. Bây giờ cả bọn tranh nhau, ai cũng muốn uống sữa trước: Có người cắn trên đầu lừa, có người nút tai, có người nút đuôi, có người dở chân, tin rằng sữa sẽ từ những chổ ấy chảy ra. Nhưng bọn họ đều thất vọng, không uống được một tí sữa lừa.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Một bọn ngoại đạo nghe nói hễ ai tu hành sẽ được chứng quả, liền tự mù quáng ở nơi địa phương sầm uất không phải chổ tu hành, tự ức kiến theo tà đạo: nhịn đói, nhẩy vào lửa, lõa hình, tu theo các lối tu khổ hạnh vô ích. Kết quả chỉ tự mình chuốc lấy sự khổ não cho chính mình mà thôi.
 
 

78. Ði không về rồi

Thuở xưa có một người bảo con trong đêm tối: 

- Ngày mai dậy thật sớm, cha con mình đ chợ mua đồ dùng. 

Người con nghe thế ghi chắc vào lòng. Ðến ngày mai dậy thật sớm, không hỏi ý cha, tự một mình anh ra chợ. Tới nơi anh không biết đến đây để làm gì, lang thang qua lại, thân thể mỏi mệt vô cùng, trong mình lại không có một đồng xu cắt bạc, bụng đói như cào, mà khôg có tiền để mua thức ăn, nước uống; đành phải trở về nhà. Ông cha vừa thấy mắng rằng:

- Mầy thật là đồ ngu si vô trí, sao không chịu đợi tao cùng đi? Tự ý một mình đi không về rồi, không được việc chi cả, tự chuốc lấy sự khổ cực nhọc nhằn, tao có đời nào bảo mầy làm thế.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người tu trì Phật pháp, nhất định phải nương gần thầy hay bạn lành, không nên tự ý mình thông minh, trí thức, rồi tự mình mù quáng tu hành. Nếu không chịu gần thầy hay bạn tốt, thì cùng với con người đi không về rồi trên đấy giống nhau.
 
 

79. Gánh ghế cho vua

Thuở xưa có một ông vua ngồi trong cung cấm, tự cảm thấy buồn buồn, muốn đến vười vô ưu du ngoạn, bèn bảo vị quan hầu cận rằng:

- Người hảy đem một chiếc ghế để trong vườn, ta muốn vào trong ấy, ngoạn nước thuởng hoa. 

Vị quan nghe bảo biết rằng mình sẽ vác ghế đi, đây là chuyện rất xấu hổ, bèn tâu với vua rằng:

- Tôi không thể vác chỉ muốn gánh.

Vua nghe rồi liền kêu người đem 36 cái ghế lại sắp thành một gánh, để trên vai vị quan cho ông gánh ra vườn. Bây giờ ông không gánh nổi, mà cũng rán hết sức gánh đi. Ðấy chỉ vì ông sợ xấu hổ mất mặt một chút mà chuốc lấy sự khổ não sấp trăm lần.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người học Phật phải học theo hạnh nhẫn nhục, cố gắng cải đổi tánh ngã mạn thói quen cố chấp của mình. Giả sữ cứ mãi mê vẻ đẹp trên mặt, không chịu cạo đầu xuất gia, kết quả phải chịu nhiều khổ não.
 
 

80. Uống thuốc nước rửa ruột

Thuở xưa có một người bị đau ruột già, thầy thuốc khám bệnh rồi cho biết: Cần phải rửa ruột mới có thể trị lành. Sau khi thầy thuốc hòa trộn thứ thuốc nước rửa ruột xong, ông bèn đi lấy cái thau đựng thuốc. Trong khi thầy thuốc chưa trở lại, người kia bèn uống thuốc nước ấy sạch trơn. Uống xong, y phát lên đau bụng dử dội, vừa lúc thầy thuốc trở về, thấy thế lấy làm quái lạ, mới hỏi anh rằng: 

- Anh làm sao thế?

Người kia bèn đem câu chuyện uống thuốc nước rửa ruột thuật lại cho ông nghe.

Ông sửng sốt:

- Ông thật khờ khạo hết chổ nói rồi, thuốc nước ấy chỉ để rửa chớ uống làm sao được.

Ðoạn ộng vội vàng lấy thuốc giải cứu cho người kia uống, khiến cho mửa hết nước rửa ruột vừa uống kia, người ấy mới khỏi nguy hiểm đến tính mạng.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phàm ra làm việc chi không nên làm một cách lộn ngược; người tu Phật pháp phải lựa pháp môn thích hợp để tu trì, không nên tùy ý tu theo một cách lộn xộn: Như tu về thiền quán, nếu là có, tu theo pháp bất tịnh quán, trước tiên, thì phải tu bất tịnh quán nếu tùy tiện tu pháp sổ tức hay pháp quán nào khác chẳng những không có lợi ích gì, mà trở lại thêm tổn hại. Không chịu thưa hỏi với thầy hay, tự mình điên đảo tu các pháp thiền quán, thì không sao tránh khỏi điều nguy hiểm đáng thương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15548)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13746)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13141)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13572)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12488)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12092)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12898)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 12987)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13218)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21338)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143674)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
(Xem: 15674)
Đại Chánh Tân Tu số 0018 - Hán dịch: Ðại Sư Pháp Hiền (đời Tống), Việt Dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 81283)
Kinh Nhật Tụng - Kinh Tụng Hằng Ngày
(Xem: 19583)
Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni - Đời Đường, nước Kế Tân, Tam Tạng Sa môn Phật Đà Ba Ly vâng chiếu dịch, Việt dịch: Sa-môn Thích Thiện Thông.
(Xem: 20212)
Kiền Long Đại Tạng Kinh bao gồm 168 tập, chứa đựng 1669 bộ Kinh văn... Tổng hợp Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 19241)
Kinh Vô Lượng Nghĩa - Tam tạng pháp sư Đàm Ma Già Đà Da Xá, người Thiên-trúc, dịch từ Phạn văn ra Hán văn tại Trung-quốc, vào đời Tiêu-Tề; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 15145)
Kinh Hạnh Nguyện Phổ Hiền - Tam Tạng pháp sư Bát Nhã, người nước Kế-tân, dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào đời Đường; Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn
(Xem: 13028)
Có lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vùng của bộ tộc Thích-ca (Sakka) tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavatthu) trong khu vườn Ni-câu-đà (Nigrodha).
(Xem: 13132)
Đây là những điều tôi nghe Bụt nói vào một thời mà người còn lưu trú tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn cây Kỳ Đà. Hôm ấy, cư sĩ Cấp Cô Độc cùng với năm trăm vị cư sĩ khác đã tìm đến nơi cư ngụ của thầy Xá Lợi Phất.
(Xem: 48970)
Trong khế kinh, Đức Phật nói. "Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật"... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14763)
Pháp Hoa Tông Yếu, Thứ tự kinh văn số 1725 trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh do Ngài Nguyên Hiểu sọan chữ Hán, Sa Môn Thích Như Điển dịch.
(Xem: 18586)
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩa xuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tựchúng ta thấy trong Đại tạng... Chánh Trí Mai Thọ Truyền
(Xem: 16385)
Tỳ Kheo Huệ Chiểu chùa Đại Vân ở Chuy Châu sọan, Sa Môn Thích Như Điển Phương Trượng chùa Viên Giác Hannover Đức Quốc dịch từ Tiếng Hán sang tiếng Việt trên chuyến Hoằng Pháp Âu Châu năm 2013
(Xem: 19364)
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú - Do HT Thích Như Điển dịch Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh
(Xem: 28038)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử tiếp tục truyền bá giáo lý của ngài trong nhân gian. Đồng thời, để bảo đảm giáo lý của ngài một cách trung thực cho hậu thế, họ đã gom lại kết tập để soạn thành một tập toàn bộ kinh điển.
(Xem: 22156)
Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ, bao gồm nghĩa lý thâm thiết để cởi mở nghiệp khổ cho chúng sanh... HT Thích Thiện Siêu dịch
(Xem: 23298)
Thiện nam tử! Có một loại pháp Bồ tát nên diệt trừ. Ðó là pháp tham. Thiện nam tử ! Ðây là một pháp phải nên diệt trừ vĩnh viễn.
(Xem: 64775)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 33196)
Thế Tôn, nếu con nghĩ rằng con đắc đạo A La Hán, thì Thế Tôn chẳng nói Tu Bồ Đề là một hành giả thanh tịnh hạnh. Vì Tu Bồ Đề vốn là vô sở hành...
(Xem: 40168)
Tam thế chư Phật, chư Đại-Bồ-tát, thật chứng và nhập một với Pháp-giới-tính nên phát-khởi vô-duyên đại-từ, đồng-thể đại-bi, hiện ra vô số thân, theo duyên hóa-độ vô-lượng vô-biên chúng-sinh...
(Xem: 27317)
Kinh Trường Bộ thi hóa (3 tập) - Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli - Chuyển thể Thơ: Giới Lạc Mai Lạc Hồng
(Xem: 74892)
Kinh chữ Hán - ĐĐ. Thích Hạnh Phú sưu tầm & biên soạn
(Xem: 36120)
Sắc là vô thường. Vô thường tức là khổ. Khổ tức là chẳng phải ta. Cái gì chẳng phải ta thì cũng chẳng phải sở hữu của ta. Quán sát như vậy gọi là chân thật chánh quán.
(Xem: 48981)
Người nhất tâm nghe kinh có hai hạng: nghe rồi thọ trì pháp và nghe rồi không thọ trì pháp. Người nghe rồi thọ trì pháp là hơn, người nghe rồi không thọ trì pháp là kém.
(Xem: 31015)
Nếu dùng hình sắc để thấy ta, Dùng âm thanh để cầu ta, Người nầy hành tà đạo, Chẳng thể thấy Như Lai... HT Thích Như Điển
(Xem: 33926)
Kinh Bại Vong (Parabhava-sutta) rút từ Tập Kinh (Suttanipata), kệ số 91-115, trang 18-20, Pali Text Society... HT Thích Thiện Châu dịch
(Xem: 58816)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại Trúc Y Ðạo tràng trong thành Thất-la-phiệt, cùng các vị đại Tỳ-khưu chúng gồm 1.250 người đều đầy đủ.
(Xem: 46257)
“Ðức Thế Tôn nghe Phạm vương ba lần ân cần thưa thỉnh, liền dùng Phật nhãn soi khắp thế giới chúng sanh, thấy sự ô nhiễm của chúng sanh có dày có mỏng...
(Xem: 43807)
Khi Đức Phật nói danh hiệu chư Phật đời quá khứ, có mười ngàn Bồ Tát, được Vô sinh nhẫn, tám trăm Thanh Văn, phát thiểu phận tâm, năm ngàn Tỷ khưu...
(Xem: 43217)
Kinh vừa là Kinh Phật, lại vừa là miệng Phật. Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã...
(Xem: 45916)
Này các Kàlàmà, chớ có tin vì nghe báo cáo, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì theo truyền thống; chớ có tin vì được kinh điển truyền tụng...
(Xem: 48017)
Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa - Trọn bộ 11 tập - 600 cuốn; Hán dịch: Huyền Trang, Việt dịch: HT Thích Trí Nghiêm
(Xem: 34616)
Nếu kẻ nam tử người nữ nhơn thân có tai ách, trong nhà nên an trí tháp xá-lợi và hình tượng Phật, họa vẽ tượng đức Văn-thù-sư-lợi Đồng tử, thiêu các thứ hương...
(Xem: 33436)
Phật dạy A-nan: “Đời quá khứ, cõi Diêm-phù-đề này có một vị Tỳ-khưu tên là Truyền Giáo. Ngày 15 tháng chín đi du hành về phương Bắc, cách nước Chi Na không xa...
(Xem: 43909)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 52921)
Kinh Ðại Bát Niết bàn, vì là lời nói sau cùng của Ðức Phật, trước khi Ngài Niết Bàn, nên bao quát hầu như đủ mọi thắc mắc của chúng sinh...Nguyễn Minh Tiến; Đoàn Trung Còn
(Xem: 40447)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43469)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 31439)
Nakulapita là một người chủ gia đình sinh sống trong vùng Bhagga, đã trọng tuổithường hay đau yếu. Ông rất kính mến Đức PhậtĐức Phật cũng xem ông như một người con của mình.
(Xem: 28685)
"Có một lần Đấng Thế Tôn lưu ngụ với những người dân trong vùng Bhagga, gần thị trấn Sumsumaragiri, thuộc khu rừng Lộc Uyển...
(Xem: 31879)
Lúc bấy giờ, rừng cây Ta La ở thành Câu Thi Na, rừng ấy biến thành màu trắng giống như con hạc trắng. Ở trong hư không tự nhiên mà có tòa lầu các bảy báu với những hoa văn...
(Xem: 28801)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Các vị Đại Bồ Tát nên hàng phục tâm như thế này: ‘Đối với tất cả các loài chúng sinh, hoặc sinh từ bào thai, hoặc sinh từ trứng, hoặc sinh nơi ẩm thấp, hoặc do biến hóa sinh ra...
(Xem: 33350)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Niết Bàn, Kinh số 0376, Hán dịch: Đời Đông Tấn, Sa-môn Pháp Hiển, Việt dịch: Thích Nguyên Hùng
(Xem: 29116)
Gương trí vằng vặc của Như Lai cũng như thế, là pháp giới vắng lặng không có gián đoạn không có dao động, vì muốn giúp vô lượng vô số chúng sanh thấy rõ nhiễm-tịnh...
(Xem: 60969)
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni - một trong các pháp môn - là trí ấn của tất cả Như Lai, mầu nhiệm rộng sâu, khác chi thuyền bè trong biển ba đào, nhật nguyệt giữa trời u ám.
(Xem: 39724)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 29644)
Trong Kiến Đàn Giải Uế Nghi của Thủy Lục Chư Khoa có lời tán thán bồ tát Quán Thế Âm rằng: “Nhân tu sáu độ, quả chứng một thừa, thệ nguyện rộng sâu như biển lớn mênh mông không thể đo lường...
(Xem: 37354)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 26827)
Nếu các chúng sanh ác tâm hướng nhau, hãy xưng danh hiệu Địa Tạng Bồ-tát, nhất tâm quy y, khiến chúng sanh kia nhu hòa nhẫn nhục, hổ thẹn với nhau, từ tâm sám hối...
(Xem: 42642)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant