Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Nhất: Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi

05 Tháng Năm 201100:00(Xem: 15791)
Phẩm Thứ Nhất: Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi

KINH ÐỊA TẠNG BỒ TÁT BỔN NGUYỆN 
Hán Dịch: Tam Tạng Pháp Sư Pháp Ðăng
Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh

QUYỂN THƯỢNG
Phẩm Thứ Nhất: Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi 

Chí Tâm Quy Mạng Lễ:

U-Minh Giáo Chủ Bổn Tôn
Ðịa-Tạng Bồ Tát Ma-ha-tát.
Lạy đức từ bi đại Giáo-chủ!
'Ðịa' là dày chắc- 'Tạng' chứa đủ.
Cõi nước phương Nam nổi mây thơm,
Rưới hương, rưới hoa, hoa vần vũ,
Mây xinh, mưa báu số không lường.
Lành tốt, trang nghiêm cảnh dị thường,
Người, trời bạch Phật: Nhơn gì thế?
Phật rằng: Ðịa-Tạng đến Thiên đường!
Chư Phật ba đời đồng khen chuộng
Mười phương Bồ Tát chung tin tưởng
Nay con sẵn có thiện nhơn duyên,
Ngợi khen Ðịa-Tạng đức vô thượng:
Lòng từ do chứa hạnh lành
Trải bao số kiếp độ sanh khỏi nàn,
Trong tay đã sẵn gậy vàng,
Dộng tan cửa ngục cứu toàn chúng sanh,
Tay
cầm châu sáng tròn vìn,
Hào quang soi khắp ba nghìn Ðại Thiên.
Diêm Vương trước điện chẳng hiền,
Ðài cao nghiệp cảnh soi liền tội căn.
Ðịa-Tạng Bồ Tát thượng nhơn, Chứng minh công đức của dân Diêm Phù!
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn Tôn Ðịa-Tạng Bồ Tát Ma-ha-tát. (Câu chót 3 lần)

Bài Tán Nguyện Hương

Nguyện mây hương mầu này
Khắp cùng mười phương cõi
Cúng dường tất cả Phật
Tôn pháp, các Bồ Tát,
Vô biên chúng Thanh-Văn
Và cả thảy Thánh Hiền.
Duyên khởi đài sáng chói
Trùm đến vô biên cõi
Xông khắp các chúng sanh
Ðều phát Bồ-đề tâm
Xa lìa những nghiệp vọng
Trọn nên đạo vô-thượng.
Nam-mô Hương-cúng-dường Bồ Tát Ma-ha-tát. (3 Lần)

Bài Văn Phát Nguyện

Lạy đấng Tam giới Tôn
Quy mạng mười phương Phật,
Nay con phát nguyện rộng
Thọ trì kinh Ðịa-Tạng.
Trên đền bốn ơn nặng,
Dưới cứu khổ tam-đồ,
Nếu có kẻ thấy nghe
Ðều phát bồ-đề tâm,
Hết một báo thân này
Sanh qua cõi Cực-Lạc
Nam-mô Bổn-Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần)

Bài Kệ Khai Kinh:

Pháp vi diệu rất sâu vô lượng
Trăm nghìn muôn ức kiếp khó gặp
Nay con thấy nghe được thọ trì
Nguyện hiểu nghĩa chơn thật của Phật.
Nam-mô U-Minh giáo chủ hoằng nguyện độ sanh:
Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật,
Chúng sanh độ tận, phương chứng Bồ-đề
Ðại Bi, Ðại Nguyện, Ðại Thánh, Ðại Từ, Bổn-Tôn Ðịa-Tạng Bồ Tát Ma-ha-tát. (3 Lần)

Phẩm Thứ Nhất 
Thần Thông Trên Cung Trời Ðao Lợi

1) Phật Hiện Thần Thông - Ta nghe như thế này: Một thuở nọ, tại cung Trời Ðao-Lợi, Ðức Phật vì Thánh Mẫuthuyết pháp:

Lúc đó, bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tất cả chư Phật và đại Bồ Tát trong vô lượng thế giớimười phương đều đến hội họp, rồi đồng khen ngợi rằng:

- Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni có thể ở trong đời ác ngũ trược mà hiện sức 'đại trí-huệ thần-thông chẳng thể nghĩ bàn' để điều phục chúng sanh cang cường làm cho chúng nó rõ 'pháp khổ pháp vui'.

Khen xong, chư Phật đều sai thị giả kính thăm đức Thế-Tôn.

Bấy giờ, đức Như-Lai mỉm cười phóng ra trăm nghìn vừng mây sáng rỡ lớn. Như là: vừng mây sáng rỡ đầy đủ, vừng mây sáng rỡ đại từ-bi, vừng mây sáng rỡ đại trí-huệ, vừng mây sáng rỡ đại bát-nhã, vừng mây sáng rỡ đại tam-muội, vừng mây sáng rỡ đại kiết-tường, vừng mây sáng rỡ đại phước-đức, vừng mây sáng rỡ đại công-đức, vừng mây sáng rỡ đại quy-y, vừng mây sáng rỡ đại tán-thán ... Ðức Phật phóng ra bất-khả-thuyết vừng mây sáng rỡ như thế rồi lại phát ra các thứ tiếng vi diệu.

Như là: tiếng Bố-thí độ, tiếng Trì-giới độ, tiếng Nhẫn-nhục độ, tiếng Tinh-tấn độ, tiếng Thiền-định độ, tiếng Bát-nhã độ, tiếng Từ-bi, tiếng Hỷ-xả, tiếng Giải-thoát, tiếng Vô-lậu, tiếng Trí-huệ, tiếng Sư-tử hống, tiếng Ðại Sư-tử hống, tiếng Mây sấm, tiếng Mây sấm lớn.

2) Trời, Rồng.............Hội Họp - Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà và cõi nước phương khác cũng đến hội họp nơi cung Trời Ðao-Lợi.

Như là: trời Tứ-Thiên-Vương, trời Ðao-Lợi, trời Tu-Diệm-Ma, trời Ðâu-Suất-Ðà, trời Hóa-Lạc, trời Tha-Hóa-Tự-Tại, trời Phạm-Chúng, trời Phạm-Phụ, trời Ðại-Phạm, trời Thiểu-Quang, trời Vô-Lượng-Quang, trời Quang-Âm, trời Thiểu-Tịnh, trời Vô-Lượng-Tịnh, trời Biến-Tịnh, trời Phước-Sanh, trời Phước-Ái, trời Quảng-Quả, trời Nghiêm-Sức, trời Vô-Lượng Nghiêm-Sức, trời Nghiêm-Sức-Quả-Thiệt, trời Vô-Tưởng, trời Vô-Phiền, trời Vô-Nhiệt, trời Thiện-Kiến, trời Thiện-Hiện, trời Sắc-Cứu-Cánh, trời Ma-hê-Thủ-La, cho đến trời Phi-Tưởng, Phi-Phi Tưởng-Xứ. Tất cả Thiên chúng, Long chúng, cùng các chúng Quỉ, Thần đều đến hội họp.

Lại có những vị Thần ở cõi Ta-bà cùng cõi nước phương khác, như Thần biển, Thần sông, Thần rạch, Thần cây, Thần núi, Thần đất, Thần sông chằm, Thần lúa mạ, Thần chủ ngày, Thần chủ đêm, Thần hư-không, Thần trên trời, Thần chủ ăn uống, Thần cây cỏ... Các vị thần như thế đều đến hội họp.

Lại có những Ðại Quỉ Vương ở cõi Ta-bà cùng cõi nước phương khác, như: Ác-Mục Quỉ-Vương, Ðạm-Huyết Quỉ-Vương, Ðạm-Tinh-Khí Quỉ-Vương, Ðạm Thai-Noãn Quỉ-Vương, Hành-Bịnh Quỉ-Vương, Nhiếp-Ðộc Quỉ-Vương, Từ-Tâm Quỉ-Vương, Phước-Lợi Quỉ-Vương, Ðại-Ái-Kính Quỉ-Vương.... Các Quỉ-Vương như thế đều đến hội họp.

3) Ðức Phật Phát Khởi - Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi Pháp-Vương tử đại Bồ Tát rằng: 'Ông xem coi tất cả chư Phật, Bồ Tát và Trời, Rồng, Quỉ, Thần đó ở trong thế giới này cùng thế giới khác, nay đều đến hội họp tại cung Trời Ðao-Lợi như thế, ông có biết số bao nhiêu chăng?'.

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi bạch Phật rằng: 'Bạch đức Thế-Tôn! nếu dùng thần lực của con để tính đếm trong nghìn kiếp cũng không biết là số bao nhiêu!'

Ðức Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Ðến Ta dùng Phật nhãn xem hãy còn không đếm xiết! Số Thánh, phàm này đều của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát từ thuở kiếp lâu xa đến nay, hoặc đã độ, đương độ, chưa độ, hoặc đã thành tựu, đương thành tựu, chưa thành tựu'.

Ngài Văn-Thù Sư-Lợi bạch đức Phật rằng: 'Từ thuở lâu xa về trước con đã tu căn lành chứng đặng trí vô-ngại, nghe lời đức Phật nói đó thời tin nhận liền. Còn hàng tiểu quả Thanh-Văn, Trời, Rồng tám bộ chúng và những chúng sanh trong đời sau, dầu nghe lời thành thật của Như-Lai, nhưng chắc là sanh lòng nghi ngờ, dầu cho có lạy vâng đi nữa cũng chưa khỏi hủy báng. Cúi mong đức Thế-Tôn nói rõ nhơn địa của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát; Ngài tu hạnh gì, lập nguyện gì mà thành tựu được sự không thể nghĩ bàn như thế?'

Ðức Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Ví như bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre, lau, đá, núi, bụi bặm trong cõi tam thiên đại thiên, cứ một vật làm một sông Hằng, rồi cứ số cát trong mỗi sông Hằng, một hột cát làm một cõi nước, rồi trong một cõi nước cứ một hột bụi nhỏ làm một kiếp, rồi bao nhiêu số bụi nhỏ chứa trong một kiếp đều đem làm kiếp cả. Từ lúc Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát chứng quả vị thập-địa Bồ Tát đến nay nghìn lần lâu hơn số kiếp tỉ dụ ở trên, huống là những thuở Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát còn ở bực Thanh-Văn và Bích-Chi-Phật!

Này Văn-Thù Sư-Lợi! Oai-thần thệ nguyện của Bồ Tát đó không thể nghĩ bàn đến được. Về đời sau, nếu có trang thiện nam, người thiện nữ nào nghe danh tự của Ðịa-Tạng Bồ Tát, hoặc khen ngợi, hoặc chiêm ngưỡng vái lạy, hoặc xưng danh hiệu, hoặc cúng dường, nhẫn đến vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của Ðịa-Tạng Bồ Tát, thời người đó sẽ được một trăm lần sanh lên cõi trời Ðao-Lợi, vĩnh viễn chẳng còn bị sa đọa vào chốn ác đạo.

4) Trưởng Giả Tử Phát Nguyện - Này Văn-Thù Sư-Lợi! Trải qua bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết kiếp lâu xa về trước, tiền thân của Ngài Ðịa-Tạng Bồ Tát làm một vị Trưởng Giả tử. Lúc đó, trong đờiđức Phật hiệu là: Sư-Tử Phấn-Tấn Cụ Túc Vạn-Hạnh Như-Lai, Trưởng Giả tử thấy đức Phật tướng mạo tốt đẹp nghìn phước trang nghiêm, mới bạch hỏi đức Phật tu hạnh nguyện gì mà đặng tốt đẹp như thế?

- Khi ấy, đức Sư-Tử Phấn-Tấn Cụ Túc Vạn-Hạnh Như-Lai bảo Trưởng Giả tử rằng: 'Muốn chứng được thân tướng tốt đẹp này, cần phải trải qua trong một thời gian lâu xa độ thoát tất cả chúng sanh bị khốn khổ'.

Này Văn-Thù Sư-Lợi! Trưởng-Giả tử nghe xong liền phát nguyện rằng: 'Từ nay đến tột số chẳng thể kể xiết ở đời sau, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng nó được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật Ðạo'.

Bởi ở trước đức Phật Sư-Tử Phấn Tấn Cụ-Túc Vạn Hạnh Như-Lai, Ngài lập nguyện rộng đó, nên đến nay đã trải qua trăm nghìn muôn ức vô số bất-khả-thuyết kiếp, mà Ngài vẫn còn làm vị Bồ Tát!

5) Bà-La-Môn Nữ Cứu Mẹ - Lại thuở bất-khả-tư-nghị vô số kiếp về trước, lúc đó có đức Phật hiệu là: Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai, Ðức Phật ấy thọ đến bốn trăm nghìn muôn ức vô số kiếp. Trong thời tượng pháp, có một người con gái dòng Bà-La-Môn, người này nhiều đời chứa phước sâu dày, mọi người đều kính nể, khi đi đứng lúc nằm ngồi, chư Thiên thường theo hộ vệ. Bà mẹ của người mê tín tà đạo, thường khinh khi ngôi Tam-Bảo. Thuở ấy, mặc dầu Thánh Nữ đem nhiều lời phương tiện khuyên nhủ bà mẹ người, hầu làm cho bà mẹ người sanh chánh kiến, nhưng mà bà mẹ người chưa tin hẳn. Chẳng bao lâu bà ấy chết thần hồn sa đọa vào Vô-Gián địa ngục.

Lúc đó, Thánh-Nữ biết rằng người mẹ khi còn sống không tin nhơn quả, liệu chắc phải theo nghiệp quấy mà sanh vào đường ác. Thánh Nữ bèn bán nhà, đất, sắm nhiều hương hoa cùng những đồ lễ cúng, rồi đem cúng dường tại các chùa tháp thờ đức Phật Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương. Trong một ngôi chùa kia thấy hình tượng của đức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại Vương đắp vẽ oai dung đủ cách tôn nghiêm.

Thánh Nữ chiêm bái tượng của đức Phật lại càng sanh lòng kính ngưỡng, tự nghĩ thầm rằng: 'Ðức Phật là đấng Ðại-Giác đủ tất cả trí-huệ, nếu đức Phật còn trụ ở đời, thì khi mẹ tôi khuất, tôi đến bạch hỏi Phật, chắc thế nào cũng rõ mẹ tôi sanh vào chốn nào'.

Nghĩ đến đó, Thánh Nữ buồn tủi rơi lệ chăm nhìn tượng Như-Lai mà lòng quyến luyến mãi.

Bỗng nghe trên hư không có tiếng bảo rằng: 'Thánh Nữ đương khóc kia, thôi đừng có bi ai quá lắm! Nay ta sẽ bảo cho ngươi biết chỗ của mẹ ngươi'.

Thánh Nữ chắp tay hướng lên hư không mà vái rằng: 'Ðức thần nào đó mà giải bớt lòng sầu lo của tôi như thế? Từ khi mẹ tôi mất đến nay, tôi thương nhớ ngày đêm, không biết đâu để hỏi cho rõ mẹ tôi thác sanh vào chốn nào?'.

Trên hư không lại có tiếng bảo Thánh Nữ rằng: 'Ta là đức Phật quá khứ Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai mà ngươi đương chiêm bái đó. Thấy ngươi thương nhớ mẹ trội hơn thường tình của chúng sanh, nên ta đến chỉ bảo'.

Thánh Nữ nghe nói xong liền té xỉu xuống, tay chân mình mẩy đều bị tổn thương. Những người đứng bên vội vàng đỡ dậy, một lát sau Thánh Nữ mới tỉnh lại rồi bạch cùng trên hư không rằng: 'Cúi xin đức Phật xót thương bảo ngay cho rõ chỗ thác sanh của mẹ con, nay thân tâm của con sắp chết mất!'.

Ðức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai bảo Thánh Nữ rằng: 'Cúng dường xong, ngươi mau mau trở về nhà, rồi ngồi ngay thẳng nghĩ tưởng danh hiệu của Ta, thời ngươi sẽ biết chỗ thác sanh của mẹ ngươi'.

Lễ Phật xong, Thánh Nữ liền trở về nhà. Vì thương nhớ mẹ, nên Thánh Nữ ngồi ngay thẳng niệm danh hiệu của Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai trải suốt một ngày một đêm. Bỗng thấy thân mình đến một bờ biển kia. Nước trong biển đó sôi sùng sục, có rất nhiều thú dữ thân thể toàn bằng sắt bay nhẩy trên mặt biển, chạy rảo bên này, xua đuổi bên kia.

Thấy những trai cùng gái số nhiều đến nghìn muôn thoạt chìm thoạt nổi ở trong biển, bị các thú dữ giành nhau ăn thịt.

Lại thấy quỉ Dạ-Xoa hình thù đều lạ lùng: hoặc nhiều tay, nhiều mắt, nhiều chân, nhiều đầu... răng nanh chỉa ra ngoài miệng bén nhọn dường gươm, lùa những người tội gần thú dữ. Rồi quỉ lại chụp bắt người tội, túm quắp đầu chân người tội lại, hình trạng muôn thứ chẳng dám nhìn lâu.

Khi ấy, Thánh Nữ nhờ nương sức niệm Phật nên tự nhiên không kinh sợ.

Có một vị Quỉ-Vương tên là Vô-Ðộc, đến cúi đầu nghinh tiếp, hỏi Thánh Nữ rằng: 'Hay thay Bồ-tát! Ngài có duyên sự gì đến chốn này?'.

Thánh Nữ hỏi Quỉ-Vương rằng: 'Ðây là chốn nào?'

Quỉ-Vương Vô-Ðộc đáp rằng: 'Ðây là từng biển thứ nhất ở phía Tây núi đại Thiết Vi'.

Thánh Nữ hỏi rằng: 'Tôi nghe trong núi Thiết Viđịa ngục, việc ấy có thiệt như thế chăng?'.

Vô-Ðộc đáp rằng: 'Thiệt có địa ngục'.

Thánh Nữ hỏi rằng: 'Nay tôi làm sao để được đến chốn địa ngục đó?'.

Vô-Ðộc đáp rằng: 'Nếu không phải sức oai thần cần phải do nghiệp lực. Ngoài hai điều này ra ắt không bao giờ có thể đến đó được'.

Thánh Nữ lại hỏi: 'Duyên cớ vì sao mà nước trong biển này sôi sùng sục như thế, và có những người tội cùng với các thú dữ?'.

Vô-Ðộc đáp rằng: 'Những người tội trong biển này là những kẻ tạo ác ở cõi Diêm-Phù-Ðề mới chết, trong khoảng bốn mươi chín ngày không người kế tự để làm công đức hầu cứu vớt khổ nạn cho; lúc sống, kẻ đó lại không làm được nhơn lành nào cả.

Vì thế nên cứ theo nghiệp ác của họ đã gây tạo mà cảm lấy báo khổ ở địa ngục, tự nhiên họ phải lội qua biển này.

Cách biển này mười muôn do tuần về phía Ðông lại có một cái biển, những sự thống khổ trong biển đó sắp bội hơn biển này.

Phía Ðông của biển đó lại có một cái biển nữa, sự thống khổ trong đó càng trội hơn.

Ðó đều là do những nghiệp nhơn xấu xa của ba nghiệp mà cảm vời ra, đồng gọi là biển nghiệp, chính là ba cái biển này vậy'.

Thánh Nữ lại hỏi Quỉ-Vương Vô-Ðộc rằng: 'Ðịa ngục ở đâu?'

Vô-Ðộc đáp rằng: 'Trong ba cái biển đó đều là địa ngục, nhiều đến số trăm nghìn, mỗi ngục đều khác nhau. Về địa ngục lớn thời có 18 chỗ, bực kế đó có 500 chỗ đủ không lường sự khổ sở, bực kế nữa có đến nghìn trăm cũng không lường sự thống khổ.

Thánh Nữ lại hỏi đại Quỉ-Vương rằng: 'Thân mẫu của tôi mới khuất gần đây, không rõ thần hồn của người phải sa vào chốn nào?'

Quỉ-Vương hỏi Thánh-Nữ rằng 'Thân Mẫu của Bồ-tát khi còn sống quen làm những nghiệp gì?'

Thánh Nữ đáp rằng: 'Thân mẫu của tôi mê tín tà đạo khinh chê ngôi Tam Bảo, hoặc có lúc tạm thời tin chánh pháp, xong rồi chẳng kính. Dầu khuất không bao lâu, mà chưa rõ đọa lạc vào đâu?'

Vô-Ðộc hỏi rằng: 'Thân Mẫu của Bồ-tát tên họ là gì?'

Thánh Nữ đáp rằng: 'Thân phụ và thân mẫu của tôi đều dòng dõi Bà-La-Môn. Thân phụ tôi hiệu là Thi-La Thiện Kiến. Thân mẫu tôi hiệu là Duyệt-Ðế-Lợi'.

Vô-Ðộc chắp tay thưa Thánh Nữ rằng: 'Xin Thánh Nữ hãy về, chớ đem lòng thương nhớ buồn rầu quá lắm nữa. Tội nữ Duyệt-Ðế-Lợi được sanh lên cõi trời đến nay đã ba ngày rồi.

Nghe nói nhờ con gái của người có lòng hiếu thuận, vì mẹ mà sắm sửa lễ vật, tu tạo phước lành, cúng dường chùa tháp, thờ đức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như-Lai. Chẳng phải chỉ riêng thân mẫu của Bồ-tát đặng thoát khỏi địa ngục, mà ngày đó, những tội nhơn Vô-Gián cũng đều được vui vẻ, đồng đặng thác sanh cả'.

Nói xong, Quỉ-Vương chắp tay chào Thánh Nữ mà cáo lui.

Bấy giờ, Thánh Nữ dường chiêm bao chợt thức tỉnh, rõ biết việc đó rồi, bèn đối trước tháp tượng của đức Giác-Hoa-Ðịnh-Tự-Tại-Vương Như Lai mà phát thệ nguyện rộng lớn rằng:

- 'Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sanh mắc phải tội khổ, thì tôi lập ra nhiều phương chước làm cho chúng đó được giải thoát'.

Ðức Phật bảo Ngài Văn-Thù Sư-Lợi rằng: 'Quỉ-Vương Vô-Ðộc trước đó nay chính ông Tài-Thủ Bồ-tát. Còn Thánh Nữ Bà-La-Môn đó nay là Ðịa-Tạng Bồ Tát vậy'.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13274)
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật cùng với 1.250 vị đại Bhikṣu ở trên núi Thứu Phong gần thành Vương Xá...
(Xem: 17961)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, Luận tập bộ toàn, kinh văn số 1686. HT Thích Như Điển dịch Việt
(Xem: 12493)
Tỉnh giác từ ngủ say Nên hoan hỷ tư duy Lắng nghe điều Ta nói Soạn tập lời Phật dạy
(Xem: 54273)
Trong kinh Bách Dụ, Phật đã dùng những chuyện xưa để thí dụ cụ thể sự dại dột mê lầm chung của chúng ta. Nếu chúng ta biết trừ bỏ mê lầm ở đâu thì Niết Bàn sẽ thực hiện ở đó.
(Xem: 14470)
Khi ấy, đức Thế Tôn ở trong Xá-vệ đại thành bộ hành, để khất thực[32]; dùng cơm xong, việc thọ thực hoàn tất, từ bỏ việc khất thực ở phía sau (quay về bổn xứ).
(Xem: 13861)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1644 - HT Thích Như Điển dịch
(Xem: 58097)
Đại Chánh Tân Tu đại tạng kinh, quyển thứ 32, luận tập bộ toàn, kinh văn số 1679 - Pháp Thiên dịch Phạn ra Hán, HT Thích Như Điển dịch Hán ra Việt
(Xem: 13350)
Lành thay, Thế Tôn! Nay xin vì con mà nói vắn tắt pháp yếu. Sau khi nghe pháp, con sẽ ở một mình nơi chỗ vắng, tu tập không buông lung.
(Xem: 11956)
Hãy bứng gốc và buông bỏ tất cả các pháp sắc, thọ, tưởng, hành, thức – nghĩa là hãy bứng gốc và buông bỏ toàn bộ thế giới trong và ngoài mà ...
(Xem: 14711)
Như Lai là vua của các pháp, là bậc Chí tôn của các pháp. Lành thay Thế Tôn! Nên thuyết nghĩa này cho các Tỳ-kheo.
(Xem: 12188)
Thiền-Đà-Ca vương phải nên biết, Sinh tử khổ não, nhiều lỗi lầm, Trọn bị vô minh che, ngăn ngại, Ta nay vì họ hưng lợi ích.
(Xem: 13704)
Này các đệ tử, sau khi Như Lai qua đời, các vị phải trân trọng, cung kính giới luật như kẻ nghèo hèn được giàu có, như kẻ đui mù được sáng mắt.
(Xem: 13372)
Tôi nghe như vầy: Bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo Thượng tọa trú ở tại vườn Cù-sư-la, nước Câu-xá-di[2].
(Xem: 12219)
Đức Phật thường nói rằng chỉ có một cách duy nhất vượt qua bờ phiền não là: xa lìa tham sân si.
(Xem: 11899)
Thuộc Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya) của Kinh tạng Pàli, đây là một bài kinh được tụng đọc thường nhật ở các xứ Phật giáo Nam Truyền
(Xem: 42124)
Bản dịch Việt ngữ từ bản chữ Hán năm 1898 Chùa Xiển Pháp tại thôn An Trạch, Tỉnh Hà Nội...
(Xem: 38870)
Kinh Ngũ Bách Danh Quán Thế Âm bản chữ Hán và Việt dịch của Quảng Minh
(Xem: 14764)
Tây Thiên dịch kinh Tam tạng, Triều tán Đại phu, Thí Hồng Lư khanh, Truyền pháp Đại sư, Thần Thí Hộ phụng chiếu dịch; Phước Nguyên dịch Việt và chú.
(Xem: 12745)
đệ tử Phật, ngày cũng như đêm, thường xuyên chí thành, hết lòng trì tụng, quán niệm khắc ghi, tám điều giác ngộ, của bậc Đại nhân.
(Xem: 16061)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 14476)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 13741)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 16432)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13188)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12947)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 14220)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14173)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16525)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12417)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14418)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11365)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11065)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13214)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13919)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13201)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13037)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13543)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 13684)
Trong khi đi vào thành phố để khất thực, hoặc trong khi đi ra khỏi thành phố, (vị khất sĩ) phải thực tập tư duy như sau:
(Xem: 33713)
Vì sao gọi nước kia tên là Cực Lạc? Vì chúng sanh của nước ấy không có các khổ não, chỉ hưởng những điều vui.
(Xem: 11377)
Trong kinh nầy, Đức Phật giảng rằng Diệu Pháp chỉ tồn tại khi nào pháp hành Tứ Niệm Xứ được tu tập sung mãn.
(Xem: 12979)
Các đệ tử bậc thánh được chỉ dạy hiểu tâm này như nó thực sự là; do vậy, với đệ tử bậc thánh, có sự thăng tiến tâm.
(Xem: 13100)
Bộ Kinh “DUY MA CẬT” này, tôn yếu hiển bày pháp môn Bất Nhị. Chính đó là phương tiện của Chư Phật, Bồ Tát thị hiện,
(Xem: 11674)
VănThù Sư Lợi Ma Ha Bát Nhã ba la mật kinh vốn là mẹ của mười phương chư Phật , pháp môn huyền diệu của tất cả Bồ tát .
(Xem: 17938)
Tâm Phật thì thường rỗng lặng tròn đầy trong sáng tột bực, thuần là trí huệ Bát Nhã, nơi đó tuyệt nhiên không có một pháp có thể nói được.
(Xem: 11478)
Đức Phật vì các vị Tỳ kheo trẻ tuổi nói nhiều bài pháp, khai thị, chỉ giáo, soi sáng, khiến hoan hỷ.
(Xem: 11900)
“Này các thầy, thế nào gọi là Nghĩa Lý Siêu Việt về Không? Khi con mắt phát sanh, nó không từ đâu tới cả, và khi hoại diệt, nó không đi về đâu cả.
(Xem: 11553)
Đại quang minh này là do Thánh Quán Tự Tại Bồ-Tát phóng ra. Ngài vì muốn cứu độ hết thảy các hữu tình đang chịu đại khổ não nên...
(Xem: 19025)
Trong các thế gian có ba pháp không thể yêu, không trong sạch, không thể muốn, không vừa ý. Ba pháp là gì?
(Xem: 12591)
Người thọ Tam quybố thí sự vô uý cho hết thảy chúng sanh, cho nên quy y Phật, Pháp, Tăng, phước đức người ấy không thể kể được.
(Xem: 11388)
Ngài Phổ Hiền đã từng chứng pháp môn nầy lâu rồi nên lúc dạy ra cho chúng sanh đã làm cho ức ngàn trời người qua được biển khổ.
(Xem: 13185)
Đây là thông điệp cuối cùng của Đức Phật trao cho hàng đệ tử khi Phật sắp thị tịch niết bàn ở rừng Sala song thụ, thuộc thành Câu-thi-na-yết-la (Kussinagayâ), Ấn Độ.
(Xem: 15824)
Kinh này được Bụt nói vào khoảng một tháng trước ngày Người nhập diệt, chứa đựng những lời dặn dò đầy tâm huyết của Bụt cho hàng đệ tử xuất gia của Người.
(Xem: 11871)
Chư Thiện tri thức, pháp môn ta đây lấy Định Huệ làm căn bổn. Đại chúng chớ mê lầm mà nói Định với Huệ là khác nhau.
(Xem: 11737)
Bạch Thế Tôn ! Vì sao Bồ tát tu thiện vốn ít mà lại gặt quả nhiều, thành tựu nhiều phước báo công đức vô lượng?
(Xem: 12839)
Những nhân gì mà khiến cho các loài chúng sinh, phải chịu các quả báo sai khác tốt xấu trong lục đạo luân hồi.
(Xem: 12680)
Khởi ác tâm với Phật, hủy báng, sanh khinh mạn, vào trong địa ngục lớn, thọ khổ vô cùng tận.
(Xem: 14006)
“Tâm tưởng của hết thảy chúng sinh khác nhau, sự tạo nghiệp của họ cũng khác, nên mới có sự luân chuyển trong mọi thú”.
(Xem: 13025)
“Ta quán thấy ở cõi Nam Diêm-phù-đề này, trong thời kỳ mạt thế, do sự bạc phước của tất cả chúng sinh,các thứ ác quỷ thần khởi lên các tai nạn não loạn khiến cho chúng sinh không an"..
(Xem: 12988)
Tôi như Chiên Đà La, phải thanh tịnh thân tâm mà chẳng nên tịnh ăn uống. Tại sao?
(Xem: 13328)
Đứng trước cảnh tàn sát, lắng nghe tiếng rên siết, tự cảm thấy mình bất lực, mà tụng niệm kinh Kim Cương thì lại thấy tâm hồn dịu lại.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant